Chủ Nhật, 27 tháng 11, 2011

22:01

 Nguyên nhân “cái chết lâm sàng” của EU (Kỳ 2)
Việc sống với nhau với thái độ bằng mặt không bằng lòng không chỉ là vấn đề duy nhất khiến EU "cất đầu lên không nổi". Nói đến sự suy sụp của EU, còn phải nhắc đến một nguyên nhân sâu xa nữa. Đó là một cơ chế bất toàn đối với giáo dục và sử dụng nguồn nhân lực. Không có nhân tài, làm sao phát triển?
Bài 2: Một ngôi nhà không móng
Nhân tài gạt nước mắt ra đi!
Hồi còn ở Pháp, Hamid Senni và Edouard Jozan như sống ở hai hành tinh khác nhau. Senni, gốc Morocco, trưởng thành tại khu quy hoạch “vô hồn” gần Valence và chật vật lắm mới có thể đến trường học được. Không chỉ một lần, Senni đối mặt câu trả lời chua chát rằng anh không thể tìm được việc làm. Trong khi đó, Jozan từng học tại một trong những trường trung học tốt nhất Paris. Sau khi tốt nghiệp đại học, Jozan làm trong lĩnh vực tài chính quốc tế. Tuy nhiên, cả hai đều có chung một điểm: mang quốc tịch Pháp, ở độ tuổi chớm 30 và nhiều tham vọng. Và cả hai cũng đều rời nước Pháp trong tâm trạng chẳng biết bao giờ hồi hương.
Bị “uất ức” bởi tình trạng phân biệt đối xử tại Pháp, Senni thoạt đầu sang Thụy Sĩ và sống ở London, nơi anh lập hãng tư vấn chuyên giúp các công ty đa quốc gia của Pháp. Phần mình, Jozan ở Đức 5 năm sau khi tốt nghiệp rồi trở về Pháp trong sự ngỡ ngàng rằng nơi mình từng làm việc bây giờ hoang tàn u ám. Lập tức rời Pháp lần thứ hai, Jozan sang Anh học thạc sĩ tại Trường kinh thương London, nơi tình cờ cách không xa văn phòng Senni… Như văn hào Ernest Hemingway từng viết, Paris đúng là thành phố của lễ hội. Sống ở đó hẳn nhiên nhiều vui thú nhưng để kiếm tiền và vươn lên trong sự nghiệp thì đừng hòng.
Báo cáo UNESCO Science Report 2010 (công bố tháng 11/2010 – mới nhất, tính đến thời điểm hiện tại) cho biết, năm 2007, Mỹ có 81.811 bằng sáng chế (chiếm 52,2% – cao nhất thế giới), so với 33.572 của Nhật (21,4%). Đức chỉ có 9.713 bằng (6,2%) nhưng cũng còn đỡ hơn Pháp với chỉ 3.631 bằng (2,3%), tệ hơn cả Trung Quốc với 7.362 bằng (4,7%). Về các công trình nghiên cứu khoa học được công bố, năm 2008, Mỹ có 272.879 bài viết (chiếm 27,7% – nhiều nhất thế giới), Nhật có 74.618 bài (7,6%); Đức có 76.368 bài (7,7%) và Pháp có 57.133 bài (5,8%)…
Tại sao giới trẻ Pháp đành lòng bỏ quê hương? Lý do thật đơn giản. Pháp hiện là một trong những quốc gia khó tìm việc nhất thế giới. Càng tham vọng bao nhiêu càng đối mặt thất vọng bấy nhiêu. Khả năng tìm được việc thường nhờ vào quan hệ hơn là tài năng. Hơn nữa, bộ máy hành chính sự nghiệp của Pháp là một trong những bộ máy công quyền nặng nề và cổ lỗ sĩ nhất thế giới. Đó là chưa kể tình trạng phân biệt chủng tộc (từng trở thành nguyên nhân khiến nước Pháp sống trong bạo loạn kinh hoàng vào năm 2005). “Tôi chỉ trở về khi cơ hội tại Pháp có nhiều hơn” – phát biểu của chuyên gia nghiên cứu thị trường Florence Cellot 32 tuổi, buộc phải dọn đến London sau khi sống 5 năm tại Tokyo – “Pháp giống như một mụ già bị bán thân bất toại bởi nỗi sợ những gì mình có thể mất” (trong khi Pháp đang mất rất nhiều, kể cả sinh khí quốc gia).
Jacques Deguest (đến Tokyo năm 2001 sau khi công ty trực tuyến mà anh thành lập tại Pháp sụp đổ) bổ sung: “Pháp như một nhà hàng nơi thức ăn luôn tuyệt hảo nhưng sự tiện nghi và dịch vụ là zero, zero, zero và hóa đơn thanh toán lại cắt cổ. Tôi yêu nước Pháp nhưng ở liều lượng ít thôi”… Với nhiều người Pháp, trong đó có nhà văn nổi tiếng Nicolas Baverez, hiện tượng chảy máu chất xám là bản tuyên ngôn mới nhất về sự xuống dốc không phanh của nước Pháp. Và thảm cảnh bỏ nhà mà đi không chỉ xảy ra với nước Pháp.
Giữa thập niên đầu của thế kỷ XXI, giới lãnh đạo châu Âu từng thề rằng EU sẽ là nền kinh tế tri thức (knowledge-based economy) năng động và có tính cạnh tranh cao nhất thế giới vào trước năm 2010. Tuy nhiên, viễn tưởng trên đã trở thành ảo tưởng, bởi hiện tượng chảy máu chất xám đã và tiếp tục bùng nổ tại châu Âu. Hàng ngàn bộ não tinh túy của châu Âu đang được sử dụng tại Mỹ. Time cho biết khoảng 400.000 sinh viên ngành khoa học – kỹ thuật mới tốt nghiệp tại châu Âu hiện sống tại Mỹ và mỗi năm có hàng ngàn người khác tiếp tục cuốn gói lên đường ra nước ngoài. Điều mỉa mai ở chỗ, châu Âu không phải không có những trung tâm nghiên cứu đẳng cấp thế giới, chẳng hạn Tổ chức Nghiên cứu hạt nhân châu Âu (CERN) tại Geneva, nơi khai sinh mạng mở rộng toàn cầu (World Wide Web) hoặc Phòng Thí nghiệm sinh học phân tử châu Âu (EMBL) tại Heidelberg, nơi hồi năm 1995, hai khoa học gia đoạt Nobel Eric Wieschaus và Christiane Nusslein-Volhard từng nghiên cứu bộ gien của nhặng. Tuy nhiên, vấn đề ở chỗ hệ thống quản trị khoa học châu Âu tiếp tục nặng thủ tục hành chính và quan liêu – như nhận xét của Claude Allègre, nguyên Bộ trưởng giáo dục Pháp. Có thể kể một trường hợp điển hình của hiện tượng quan liêu và kinh phí yếu trong làng khoa học châu Âu. Năm 2000, sau ba năm đóng góp lớn cho hãng dược phẩm khổng lồ Mỹ Eli Lilly, Matthias Tschop trở về quê nhà Đức và thành lập Viện dinh dưỡng con người Đức (DIFE) tại Potsdam. Dù Matthias Tschop nhanh chóng quyên được 11,7 triệu euro cho nghiên cứu hợp tác về bệnh béo phì nhưng khoản tiền ít ỏi không đủ để DIFE theo đuổi dự án đến cùng. Cuối cùng, Matthias Tschop lại sang Mỹ, làm giáo sư trợ giảng tại Đại học Cincinnati và lập tức được cấp 750.000 USD để thành lập phòng thí nghiệm riêng tại Đại học Cincinnati.
Đúng vậy, tiền là vấn đề muôn thuở của giới khoa học châu Âu – như nhận xét Luciano Maiani, Giám đốc CERN. “Châu Âu ngày càng yếu vì chúng tôi không được đầu tư đủ” – Luciano Maiani nói. Chỉ Phần Lan và Thụy Điển là đạt tiêu chuẩn châu Âu với ngân sách 3% GDP cho nghiên cứu. Với mục tiêu “đứng đầu thế giới về kinh tế tri thức” trước năm 2010, đầu tư cho R&D của châu Âu phải tăng 8%/năm nhưng điều này đã không xảy ra. Tại Ý, ngân sách cho nghiên cứu công cộng đã giảm một thập niên qua. Ngân sách nghiên cứu khoa học 2004 của Pháp chỉ khoảng 0,9%, không bằng 1/2 kinh phí cần có. Và để sống, nhiều nhà khoa học đã xé rào bước vào lằn ranh mờ ám mà tính đạo đức không cho phép.
Giáo sư Michael Krausz (khoa tâm lý Đại học Hamburg) đã nhận quỹ nghiên cứu từ một hãng dược phẩm vô danh và cuối cùng bị cáo buộc tội bán rẻ lương tâm trong việc giúp tung ra các sản phẩm thuốc tào lao. Ngành công nghiệp châu Âu cũng thiếu kinh phí R&D nghiêm trọng. Cuối cùng, một nguyên nhân nữa dẫn đến trào lưu “trốn” sang Mỹ của giới khoa học châu Âu là tình trạng phân biệt đối xử. Người ta vẫn còn phổ biến hiện tượng trọng nam khinh nữ trong giới khoa học, đồng nghiệp nữ thường bị trả lương thấp hơn đồng nghiệp nam (trong lĩnh vực nghiên cứu lẫn giảng dạy đại học). Ngoài ra, Mỹ cũng ưu ái cho giới khoa học trẻ – điều hiếm khi xảy ra tại châu Âu. “Ở Đức, nguyên tắc tưởng thưởng không tồn tại” – phát biểu của Michael Alexander Rubhausen, 32 tuổi, trưởng nhóm nghiên cứu vật lý hóa sinh Đại học Hamburg
Một cơ chế giáo dục kỳ quặc
Thật khó tưởng tượng cái nôi của những Sorbonne bây giờ lại bệ rạc đến như vậy. Nghe cứ như chuyện xảy ra tại các nước thế giới thứ ba chứ không phải xã hội văn minh và hiện đại như châu Âu. Giáo viên không sống nổi phải còng lưng làm thêm và học sinh – sinh viên bỏ trường bỏ lớp với đủ lý do… Tại viện đại học lớn nhất châu Âu La Sapienza (Đại học Rome) với 150.000 sinh viên, lớp học được dựng trong những căn lều xiếc bởi không có tiền sửa phòng học đổ nát. Thông tin liên quan giáo dục châu Âu bây giờ không phải là những khám phá sáng chói mà là những scandal chẳng hạn vụ một số giáo sư bán điểm để đổi lấy quan hệ tình dục với sinh viên. Tệ chưa!
Immacolata Curinga 27 tuổi, người có bằng thạc sĩ giáo dục và tâm lý học phải kiếm thêm bằng nghề giữ trẻ với 6 euro/giờ. Tình cảnh tương tự xảy ra khắp châu Âu, từ hệ thống giáo dục phổ thông đến giáo dục đại học. Tại Trường Rtli (Berlin), nằm tại một trong những khu Arập – Thổ Nhĩ Kỳ với 83% học sinh không biết nói tiếng Đức, các bức tường gần như muốn sập. Tại hauptschule (trung học dạy nghề) này, học sinh ra trường ít có cơ hội tìm được việc làm. Cựu Hiệu trưởng Brigitte Pick cho biết, năm 2005, không học sinh nào tốt nghiệp Rtli có thể tìm được việc làm. Tháng 3/2006, tập thể giáo viên Rtli đã nhất trí ký đơn xin giải thể trường!
Trong thế giới “đi chậm là chết” – theo ngôn ngữ của nhà báo – nhà toàn cầu học Thomas Friedman, châu Âu đã không bắt kịp nhịp kết nối sự chuyển dịch toàn diện xảy ra trong nền kinh tế thị trường được thúc đẩy bằng chất xám và cạnh tranh sáng tạo. Trong khi đó, hệ thống giáo dục châu Âu tiếp tục “nổi tiếng” với ngân sách khiêm tốn và bộ máy quản trị cồng kềnh. Hơn nữa, tình trạng bất bình đẳng cũng tồn tại như một nhức nhối xã hội. Tháng 2/2006, cao ủy nhân quyền Liên Hiệp Quốc Vernor Muđoz Villalobos đã chỉ trích Đức tống học sinh thuộc thành phần nhập cư vào những trường “cấp ba” (hạng bét) và tình trạng tương tự cũng hiện diện tại Pháp, Tây Ban Nha, Hà Lan, nơi nhà trường dành cho dân da màu luôn đồng nghĩa với hình ảnh học sinh nhếch nhác cá biệt, quậy có đẳng cấp và tất nhiên biếng học (năm 2005, Giáo sư Georges Felouzis tại Bordeaux từng nói đến nạn “Apartheid” trong học đường Pháp). Trong khảo sát gần đây của Tổ chức Phát triển và Hợp tác kinh tế (OECD), thành phần nhập cư thế hệ thứ ba tại Đức cũng như một số nước khác có học bạ “bê bối” hơn thế hệ thứ hai (Newsweek).
Hiện trạng trên khiến châu Âu đang phải đối mặt nguy cơ tụt hậu, không chỉ với Mỹ mà thậm chí với châu Á. Hệ thống đại học châu Âu vẫn sản xuất đều đặn và cung cấp xã hội tỉ lệ sinh viên tốt nghiệp nhất định nhưng lực lượng này nhanh chóng trở thành đối tượng sống nhờ trợ cấp chính phủ. Ở cả ba cấp độ – giáo dục tiểu học, trung học và đại học – Mỹ và Nhật đều tiến xa hơn châu Âu. Mỹ đầu tư 2,6% GDP vào riêng hệ thống đại học, so với 1,1% tại Đức, Ý và Pháp. Năm 2005, Thổ Nhĩ Kỳ thậm chí cũng qua mặt ba cụ trí thức cựu trào trên. Theo xếp hạng thường niên mới nhất của hai chuyên san uy tín là US News & World Report (Mỹ) và Times Higher Education (Anh), trong top 10 đại học hàng đầu thế giới, chẳng hề có một mống đại học châu Âu lục địa nào (chỉ có các đại học thuộc Vương quốc Anh). Một trong những nỗi khổ triền miên của hệ thống giáo dục châu Âu là tình trạng quan liêu. Tại Pháp và Đức, các vị đáng kính thuộc bộ ngành trung ương nhúng tay vào đủ tiểu tiết, từ ngân sách đến bổ nhiệm nhân sự. Áo, Bỉ, Đức và Hà Lan bây giờ vẫn duy trì hệ thống trường học thế kỷ XXI, phân chia học sinh từ độ tuổi rất sớm (10 tuổi) thành các cấp khác nhau. Và hệ thống hauptschule tại Đức chỉ cung cấp trình độ sơ đẳng (đây là vết tích của thời phong kiến, khi xã hội chỉ cần một đại học tinh hoa nhưng cần một lượng lớn nhân công).
Chính sách giáo dục châu Âu còn có nhiều bất cập. Với học sinh tiểu học gốc Thổ Nhĩ Kỳ tại Đức, khoảng 2/3 sẽ được chuyển trường sau lớp bốn, đến hauptschule hoặc trường dành cho người khuyết tật! Trong nhiều trường hợp, bọn trẻ thường chọn con đường dẫn ra “trường đời”. Số học sinh thuộc thành phần nhập cư tại hệ thống dạy nghề Đức đã giảm từ 9,4% năm 1994 xuống còn 5,6% năm 2004, dù tỉ lệ đầu vào tăng 27%. Nếu số học sinh thuộc thành phần nhập cư chiếm 1/3 tổng học sinh Đức vào trước năm 2020 như dự báo, Đức chắc chắn khốn đốn về quả bom nổ chậm này đối với nền kinh tế quốc gia. Sự lãng phí tài năng, tiền của và nguồn đào tạo cũng là vấn đề đáng kinh ngạc. Tỉ lệ học sinh, sinh viên bỏ học tại hệ thống hauptschule Đức là 10% và tại hệ thống đại học Ý là 60%! Và tất nhiên chúng trở thành “tầm gửi” của chế độ trợ cấp. Văn phòng lao động Liên bang Đức hiện có 960.000 “khách hàng” dưới 25 tuổi và họ phải chi 6 tỉ euro chỉ riêng cho chương trình tái đào tạo những kỹ năng cơ bản chẳng hạn toán sơ cấp hoặc cách sử dụng Microsoft Word. Và dù tỉ lệ thất nghiệp chính thức tại Đức hiện là 6% (tính đến tháng 8/2011 – so với 9,9% tại Pháp; 7,9% tại Ý…) nhưng các công ty vẫn “bói” không ra nhân công có tay nghề chứ đừng nói kỹ sư và chuyên gia. Nỗi khổ tâm của giáo dục Đức có nguy cơ làm thiệt hại 0,9% trong tỉ lệ phát triển hàng năm.
Đúng là cơ chế quan liêu mang lại ảnh hưởng tiêu cực nghiêm trọng cho giáo dục châu Âu. Trong 25 năm, các bộ trưởng giáo dục Đức luôn cấm học sinh dự bất kỳ cuộc thi quốc tế nào, từ sau một nghiên cứu 1970 cho biết học sinh Đức ngày càng có học lực kém. Trong khi Mỹ tạo ra mạng kết nối cực tốt giữa hệ thống giáo dục và hệ thống doanh nghiệp để tìm tài trợ cho nghiên cứu, giới quản lý giáo dục châu Âu vẫn không cho phép nhà nghiên cứu tiếp cận những dữ liệu mới nhất. Chẳng phải tự nhiên mà giới khoa học châu Âu kéo nhau sang Mỹ và thậm chí nhiều nước châu Á trong đó có Hàn Quốc để tìm kiếm một “cuộc sống chất lượng hơn”. Trong toàn khối EU, Anh có lẽ là quốc gia duy nhất không bị ảnh hưởng bởi không khí bảo thủ trong giáo dục đại học châu Âu nói chung. Toàn cảnh, có lẽ vấn đề lớn nhất của hệ thống giáo dục châu Âu là sự hạn chế của xã hội hóa, theo mô hình kinh tế thị trường, như thành công không thể không thừa nhận của hệ thống giáo dục Mỹ…
Với những khiếm khuyết mang tính hệ thống trong bộ máy giáo dục như vậy, thử hỏi làm sao châu Âu có thể trở thành một “siêu cường”, như bày tỏ mong muốn của cụ Romano Prodi (nguyên Chủ tịch Ủy ban châu Âu)?
(Xem tiếp kỳ sau)
(NLM) Mạnh Kim

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét