Thứ Tư, 27 tháng 6, 2012


14:03

Nguy cơ giảm phát “quay ngược” chiều kim đồng hồ?


(Tamnhin.net) - Thừa nhận lạm phát tại Việt Nam giảm “một cách đáng ngạc nhiên”, nhưng giới chuyên gia cũng cảnh báo: cần có những quyết sách đúng đắn để ngăn chặn nguy cơ giảm phát quay ngược chiều kim đồng hồ trở lại thời "thả lỏng tiền tệ” tạo tiền đề cho lạm phát cao tái phát.

Theo số liệu công bố của Tổng cục Thống kê, CPI tháng 6 của Việt Nam giảm 0,26%, là lần đầu tiên ở mức âm sau 38 tháng. So với cùng kỳ năm 2011, mặt bằng giá hiện tại cao hơn khoảng 6,9%. Theo báo cáo của Chính phủ tại kỳ họp Quốc hội vừa qua (dựa trên số liệu tính đến hết tháng 5), GDP 6 tháng có thể tăng khoảng 4,31%. Tuy nhiên, sau khi kết thúc 6 tháng, cơ quan thống kê đang tính toán lại và số liệu thực tế có thể cao hơn, đạt khoảng 4,4-4,6%.

Theo dự báo của JPMorgan Chase, với tốc độ tăng trưởng GDP đi vào ổn định thì các áp lực lạm phát cũng có thể sớm quay đầu tăng nhẹ sau một thời gian suy giảm. Tuy nhiên, ngân hàng này cho rằng, trong trường hợp giá dầu thế giới tiếp tục giảm, thì tốc độ lạm phát của Việt Nam hoàn toàn có thể giảm thêm.

JPMorgan Chase dự báo, lạm phát của Việt Nam sẽ giảm về mức 4,2% so với cùng kỳ năm trước vào tháng 10 tới đây, rồi dần tăng trở lại. Tính cả năm, JPMorgan Chase cho rằng, lạm phát của Việt Nam sẽ ở mức 8,1%, so với mức 18,1% của năm 2011.

Chuyên gia của JPMorgan Chase cho rằng, lạm phát giảm tốc sẽ đem lại hai hiệu ứng tích cực.

Thứ nhất là chính sách tiền tệ có thể được nới lỏng thêm, hỗ trợ cho tăng trưởng kinh tế đang yếu. Do lạm phát giảm nhanh, lãi suất thực tế ở Việt Nam đang ở mức cao nhất trong mấy năm, bất chấp lãi suất cơ bản giảm 400 điểm phần trăm trong vài tháng qua. Theo số liệu mà báo cáo đưa ra, lãi suất repo (trên thị trường mở) thực tế hiện đang thực dương 2,9%, thay vì mức âm 7,3% vào tháng 8 năm ngoái, trong khi lãi suất repo hiện là 10% so với mức 14% vào tháng 8 năm ngoái.

Thứ hai, lạm phát giảm tốc sẽ cải thiện cân bằng kinh tế vĩ mô và ổn định cán cân thanh toán của Việt Nam. Áp lực đối với cán cân thanh toán của Việt Nam thường xuất phát từ các dòng vốn ngắn hạn vốn dĩ rất nhạy cạm với lạm phát vì người dân dễ dàng dịch chuyển vốn giữa USD, VND và vàng. Nếu lạm phát thấp, các dòng vốn sẽ tiếp tục chảy vào các tài sản VND. Theo các tuyên bố chính thức, thì dự trữ ngoại hối của Việt Nam năm nay đã lần đầu tiên tăng sau nhiều năm. JPMorgan Chase dự báo mức dự trữ này còn tiếp tục tăng thêm.

Tuy nhiên, chia sẻ quan ngại về tốc độ tăng trưởng của Việt Nam, hãng tin Bloomberg trích dẫn nhận định của Ngân hàng ANZ cho rằng đà giảm của lạm phát hiện nay chủ yếu do giảm giá nguyên - nhiên liệu, giá thực phẩm trên thị trường thế giới, đặc biệt là cầu tiêu dùng nội địa thấp hơn nhiều so với dự báo”. Ngoài ra, những lo ngại về tình trạng sức khỏe ngân hàng cũng có thể ảnh hưởng tới niềm tin của nhà đầu tư và tăng trưởng của Việt Nam trong năm nay.

Cũng đánh giá về kinh tế vĩ mô của Việt Nam sau khi số liệu CPI 6 tháng được công bố, tờ China Post (Trung Quốc) cho rằng, việc lạm phát hạ nhiệt là đáng mừng nhưng GDP chỉ tăng 4% cũng là thấp nhất trong vòng 3 năm qua. Báo này cho rằng CPI tăng chậm chủ yếu do hệ quả của việc thắt chặt tiền tệ và sự sụt giảm nhu cầu tại các thị trường xuất khẩu chính của Việt Nam. Việc cắt giảm liên tục các loại lãi suất điều hành của Ngân hàng Nhà nước trong thời gian qua được China Post nhìn nhận là phản ứng chính sách của Việt Nam trước tình trạng GDP tăng chậm.

TS. Quách Mạnh Hào, Phó tổng giám đốc Công ty Chứng khoán MB (MBS) nêu rõ, thời gian qua chúng ta đã theo đuổi mục tiêu kiềm chế lạm phát và việc tác động giảm tổng cầu là giải pháp được chọn. Nhưng cũng cần nhấn mạnh là việc đẩy mặt bằng lãi suất lên quá cao là một chiến lược tồi bởi điều đó không còn là tác động giảm cầu, mà là cắt cầu.

Chúng ta vừa trải qua giai đoạn lạm phát cao, nhưng rõ ràng là chúng ta cũng không vui gì với tình hình hiện nay. 70% doanh nghiệp thua lỗ trong quý 1, gần 22.000 doanh nghiệp đã giải thể, GDP quý 1 chỉ tăng 4% và đương nhiên là đi kèm với đó là các vấn đề xã hội như thất nghiệp, thu nhập giảm, vỡ nợ…

Chúng ta đã cố gắng giải bài toán lạm phát bằng một công cụ rất truyền thống là thắt chặt tiền tệ, đẩy mặt bằng lãi suất lên cao để rồi công cụ này đưa chúng ta tới bài toán thậm chí còn khó giải hơn là nợ xấu, thất nghiệp và đình trệ.

Việc mở rộng tiền tệ là giải pháp thường thấy khi giảm phát xảy ra, cũng tượng tự nhưng ngược lại với trường hợp lạm phát. Tuy nhiên, vấn đề là chúng ta không thể vận dụng nguyên tắc đó một cách máy móc bởi các lý thuyết kinh tế mang tính thời điểm và hoàn cảnh.

TS. Quách Mạnh Hào e ngại rằng những giải pháp mở rộng tiền tệ quá nhanh và quá mức sẽ đẩy nền kinh tế vào tình trạng có quá nhiều tiền rẻ và một chu kỳ bong bóng tài sản và lạm phát mới sẽ xuất hiện nhanh hơn mong đợi. Khi có nhiều tiền rẻ, sẽ lại có các quyết định rủi ro và vòng luẩn quẩn lặp lại.

Trong điều kiện hiện tại, ta nên theo đuổi các chính sách thuần túy thị trường hơn là nghĩ về các giải pháp cứu, mở rộng hay kích thích.

Theo TS. Quách Mạnh Hào, mặt bằng lãi suất là nhân tố quan trọng quyết định sự hợp lý của các chính sách tiền tệ. Trước đây, khi mặt bằng lãi suất ở mức cao, việc thắt chặt tiền tệ đẩy mặt bằng lãi suất lên cao hơn sẽ dẫn tới tình trạng chỉ có những doanh nghiệp rủi ro cao vay làm liều, các doanh nghiệp tốt không thể vay. Hệ quả là đình trệ và nợ xấu gia tăng. Chính sách kiểm soát lạm phát bằng thắt chặt tiền tệ trong điều kiện mặt bằng lãi suất cao là đạt mục tiêu nhưng không hiệu quả.

Ngược lại, nếu chính sách tiền tệ mở rộng dẫn tới mặt bằng lãi suất giảm tới mức thấp hơn và khuyến khích các hành vi đầu tư thiếu suy nghĩ thì điều này lại tất yếu dẫn tới hiệu quả đầu tư kém, bong bóng tài sản và sau đó là lạm phát trở lại. Điều này là do khi đó năng lực sản xuất của nền kinh tế không kịp đáp ứng với sự gia tăng của cung tiền.

Theo ông Louis Taylor, Tổng giám đốc Ngân hàng TNHH một thành viên Standard Chartered (Việt Nam), vấn đề mấu chốt ở đây là các chính sách tiền tệ cần phải tập trung vào việc bình ổn giá cả, ổn định tiền tệ và giữ tăng trưởng tín dụng ở mức hỗ trợ phát triển kinh tế. Chính phủ Việt Nam nên hướng mục tiêu tăng trưởng tín dụng vào đầu tư hơn là vào tiêu dùng. Đây là lĩnh vực mà Chính phủ nên tập trung vào và trên thực tế, đây cũng là lĩnh vực mà Chính phủ đã tuyên bố là sẽ hướng tới.
Tốc độ và biên độ giảm lãi suất phải dựa trên bối cảnh chung của nền kinh tế. Việc cắt giảm lãi suất sẽ phải dựa vào cơ chế thị trường. Chúng ta không thể nói đơn thuần là NHNN nên giảm lãi suất, mà phải nói rằng, NHNN nên giảm lãi suất vì một số yếu tố cụ thể nào đó, ví dụ như lạm phát đang giảm nhanh hơn dự kiến. Do vậy, NHNN nên đưa ra các quyết định cắt giảm lãi suất nhanh hơn dự kiến. NHNN nên hướng tới việc tạo dựng sự ổn định phù hợp với bối cảnh kinh tế trong từng thời điểm.
Tổng giám đốc Ngân hàng TNHH một thành viên Standard Chartered (Việt Nam) cho rằng, nếu giảm lãi suất nhanh hơn cơ chế thị trường thì sẽ gây ra vấn đề. Chúng ta chỉ có thể đưa ra những nhận định dựa trên cơ sở bối cảnh kinh tế thị trường. Nếu lạm phát giảm 4% mà lãi suất chỉ giảm 1% thì sẽ là không đủ, nhưng nếu lạm phát tăng 1% mà lãi suất lại giảm 1% thì lại là quá nhiều. Đây chỉ là những con số mang tính chất minh hoạ, nhưng vấn đề mấu chốt ở đây là NHNN đã chính thức phát biểu sẽ “điều chỉnh lãi suất dựa trên các điều kiện thị trường”.
Mỹ Loan

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét