“Ai là kẻ gây bất
ổn tại biển Đông?” - Vài lời với Đại sứ Trung Quốc
Cập nhật lúc 20:11
(Dân trí) - Đại sứ Trung Quốc tại Thái Lan
Ninh Phú Khôi ngày 23/6 đã viết bài trên báo Matichon trình bày quan điểm của
ông về vấn đề biển Nam Trung Hoa - vùng biển Việt Nam gọi là Biển Đông. Để
rộng đường dư luận, tôi cũng xin bổ sung thêm một số thông tin để bạn đọc của
bản báo có được sự đánh giá đầy đủ hơn về “ai là kẻ gây bất ổn tại biển
Đông”.
![]()
Tàu Trung Quốc sẵn
sàng đâm va vào tàu Việt
Đó là lời mở đầu bài viết của Đại sứ
Việt Nam tại Thái Lan Nguyễn Tất Thành “đáp” lại bài viết của Đại sứ Trung
Quốc tại Thái Lan Ninh Phú Khôi trên báo Matichon của Thái Lan. Dân Trí xin
được đăng tải.
Trước tiên, tôi thấy rằng thông tin mà Đại sứ Ninh nêu
trong bài để cho rằng Việt Nam “quấy rối” hoạt động của Trung Quốc thực chất
là chép lại từ tài liệu ngày 08/6/2014 công bố trên trang mạng của Bộ Ngoại
giao Trung Quốc. Nhưng tôi cũng nhận thấy rằng cả tài liệu này cũng như trong
các cuộc họp báo khác nhau, đại diện Bộ Ngoại giao Trung Quốc chưa bao giờ
đưa ra được bằng chứng thuyết phục và khách quan để chứng minh luận điểm của
mình. Trong thời đại bùng nổ thông tin hiện nay, các bạn đọc Thái chắc không
khó kiểm chứng được từ các nguồn thông tin công khai và khách quan để thấy
được đúng sai trong các thông tin mà Đại sứ Ninh đã nêu.
Thực tế là hoạt động trái phép của giàn khoan Trung Quốc cũng
như hành động hung hăng, vô nhân đạo của các tàu hộ tống giàn khoan của Trung
Quốc trong vùng biển của Việt Nam đã được thông tin đầy đủ bởi nhiều cơ quan
truyền thông cả trong và ngoài khu vực, của các nước phát triển và đang phát
triển. Các phóng viên nước ngoài, các nhà bình luận quốc tế hay các học giả và
chính giới đều có chung nhận định rằng chính hành động đơn phương, khiêu khích
không phù hợp với luật pháp quốc tế, trái với Tuyên bố về ứng xử của các bên
ở biển Đông (DOC) của Trung Quốc là nguyên nhân chủ yếu gây ra tình hình căng
thẳng hiện nay.
Thứ hai, tôi không thể đồng ý với quan điểm của Đại sứ
Ninh cho rằng chính phủ Trung Quốc đã thực hiện chủ quyền liên tục, hợp pháp
và ổn định đối với quần đảo này từ giữa và cuối thế kỷ thứ 10 vì điều này mâu
thuẫn với lịch sử và nhầm lẫn về pháp lý. Việt
Tôi nói rằng có sự mâu thuẫn với lịch sử trong phát biểu
của Đại sứ Ninh vì theo như tôi biết năm 1898, trước việc chủ tàu Bellona và
Himeji Maru đòi nhà đương cục Trung Quốc bồi thường cho việc ngư dân Trung
Quốc cướp tài sản hai chiếc tàu này khi chúng bị đắm tại Hoàng Sa, Phó vương
Quảng Đông đã tuyên bố quần đảo Hoàng Sa là vùng đất vô chủ, không thuộc về
Trung Quốc, không có liên quan gì về mặt hành chính đối với bất cứ quận nào
của Hải Nam và không cơ quan nào có trách nhiệm kiểm soát khu vực này. Điều
này thực ra cũng dễ hiểu thôi vì trong một thời gian dài của lịch sử, các
triều đình nhà Minh và nhà Thanh đã áp dụng chính sách “Hải cấm” thể hiện một
sự lo ngại đối với những mối hiểm họa từ biển hơn là một tư duy mong muốn
vượt ra khỏi lãnh thổ lục địa để làm chủ biển.
Chính vì tư duy của người Trung Quốc đối với biển và về
quần đảo Hoàng Sa như vậy, nhà bản đồ học hàng đầu người Pháp là
Jean-Baptiste Bourguignon d'Anville đã thể hiện lãnh thổ Trung Quốc thời Càn
Long (1736 - 1795) chỉ giới hạn đến đảo Hải Nam (không bao gồm các đảo ở biển
Đông như quần đảo Hoàng Sa) trong tấm bản đồ xuất bản tại Đức thế kỷ 18. Tấm
bản đồ này đã được Thủ tướng Đức Angela Merkel tặng Chủ tịch Trung Quốc Tập
Cận Bình tháng 3 vừa qua khi ông Tập Cận Bình tới thăm Đức.
Trong khi đó, chính tài liệu của Trung Quốc, như Hải ngoại
Kỷ sự (Haiwai jishi) năm 1696 hay Hải Lục (Hailu) năm 1820 và tài liệu quốc
tế như Journal of the Asiatic Society of Bengal (1837) và Journal of the
Geographical Society of London (1849) đã công nhận và thể hiện quần đảo Hoàng
Sa là lãnh thổ của Việt Nam.
Về mặt pháp lý, tôi chỉ nói ngắn gọn là không có bất cứ
tài liệu quốc tế chính thức liên quan nào ghi rằng Trung Quốc giành lại Hoàng
Sa từ Nhật Bản năm 1946 như Đại sứ Ninh đã viết. Trái lại, tại Hội nghị San
Francisco năm 1951, đề xuất yêu cầu Nhật Bản nhìn nhận chủ quyền của Cộng hòa
Nhân dân Trung Hoa đối với quần đảo Hoàng Sa đã bị bác bỏ với 46 phiếu chống
trong tổng số 51 nước tham dự. Cũng tại Hội nghị này, Trưởng đoàn Việt Nam,
Thủ tướng Trần Văn Hữu đã tái khẳng định chủ quyền của Việt Nam đối với Hoàng
Sa mà không gặp phải bất kỳ phản đối nào. Tiếp đó, Hội nghị Giơ-ne-vơ năm
1954 về việc khôi phục hòa bình ở Đông Dương khẳng định các bên tham gia tôn
trọng độc lập và toàn vẹn lãnh thổ của Việt
Chính vì chủ quyền đối với Hoàng Sa thuộc về Việt Nam và Trung
Quốc với tư cách là quốc gia tham gia Hội nghị Giơ-ne-vơ năm 1954 biết rất rõ
về điều này, hành động mà Đại sứ Ninh gọi là “đánh đuổi” quân đội miền Nam Việt
Nam tại Hoàng Sa thực chất là hành động xâm lược bằng vũ lực và đã bị chính
quyền Việt Nam Cộng hòa cũng như Chính phủ Cách mạng lâm thời miền Nam Việt Nam
lên án mạnh mẽ. Một hành động như vậy không thể là cơ sở để Trung Quốc đòi hỏi
chủ quyền như Bị vong lục ngày 12/5/1988 của Bộ Ngoại giao Trung Quốc đã nêu
và đăng trên Nhân dân Nhật báo cùng ngày.
Thứ ba, Đại sứ Ninh nói rằng hoạt động của giàn khoan Hải Dương-981
lần này là sự tiếp nối của tiến trình thăm dò trong suốt 10 năm qua, hoàn
toàn trong phạm vi chủ quyền và quyền quản lý của Trung Quốc và Việt
Thực vậy, khu vực Trung Quốc hạ đặt trái phép giàn khoan
Hải Dương-981 nằm sâu trong vùng đặc quyền kinh tế và thềm lục địa của Việt
Để hỗ trợ cho hoạt động trái phép của giàn khoan Hải Dương-981,
Trung Quốc huy động một lực lượng hùng hậu tàu bè và máy bay các loại, có lúc
lên tới gần 140 chiếc, trong đó có cả những tàu quân sự hiện đại, trang bị vũ
khí đầy đủ để cản phá hoạt động của các tàu dân sự của Cảnh sát Biển và Kiểm
ngư Việt Nam đang thực thi pháp luật trên vùng biển của Việt Nam. Các tàu Trung
Quốc đã đâm va, phun vòi rồng vào các tàu của Việt Nam trong phạm vi bán kính
cách giàn khoan trên 10 hải lý, gây thương tích cho hàng chục cán bộ kiểm ngư
và ngư dân, gây hư hại nhiều tàu thực thi pháp luật của Việt Nam. Vô nhân đạo
hơn cả là việc tàu Trung Quốc đâm chìm một tàu cá của Việt Nam đang đánh bắt trong
vùng đặc quyền kinh tế của Việt Nam và các tàu của Trung Quốc ngăn cản hoạt động
tàu Việt Nam cứu trợ đối với 10 thuyền viên của tàu bị chìm.
Các hành động của Trung Quốc đã vi phạm nghiêm trọng luật pháp
quốc tế, trong đó có Công ước của Liên hợp quốc về Luật Biển năm 1982, trái
với tinh thần và lời văn của DOC cũng như các thỏa thuận cấp cao giữa hai nước.
Hành động của Trung Quốc đã không còn là một vấn đề song phương giữa Việt Nam
và Trung Quốc mà đã và đang đe dọa an ninh, an toàn, tự do hàng hải và gây bất
ổn trong khu vực. Chính vì vậy, không chỉ Việt
Cuối cùng, trong bài viết của mình, Đại sứ Ninh nói rằng “Trung
Quốc là một nước lớn có trách nhiệm, chúng tôi “không gây chuyện” và không
muốn thấy khu vực xung quanh chúng tôi xảy ra những rắc rối”. Nhưng tôi thấy
thực sự lo ngại là các hành động của Trung Quốc trong vụ giàn khoan Hải Dương-981mà
tôi vừa thông tin cho bạn đọc của bản báo đã thể hiện khoảng cách rất lớn
giữa lời nói và việc làm của Trung Quốc.
Dù vậy, tôi hoan nghênh tuyên bố của Đại sứ Ninh rằng “Nếu
bất cứ việc gì có thể làm dịu tình hình, chúng tôi đều sẽ quyết tâm tiến hành
thúc đẩy”. Tôi nghĩ rằng điều thiết thực nhất hiện nay là Trung Quốc ngay lập
tức rút giàn khoan Hải Dương-981 cùng các tàu hộ tống ra khỏi vùng biển của
Việt Nam và cùng Việt Nam giải quyết các vấn đề pháp lý liên quan.
Về điểm cuối cùng này, cá nhân tôi thấy rằng Đại sứ Ninh
và tôi nên tận dụng những hiểu biết của mình về tranh chấp hiện nay xung
quanh hoạt động của giàn khoan Hải Dương-981 ở Biển Đông để đưa ra những đề
xuất phù hợp với cơ quan chức năng trong nước, kể cả việc kiến nghị chính phủ
hai nước trình bày những bằng chứng lịch sử và lập luận pháp lý của hai bên
trước một cơ quan tài phán quốc tế để phân xử chứ không chỉ dừng ở việc trình
bày quan điểm trên phương tiện thông tin đại chúng.
Việc Trung Quốc đồng ý sử dụng biện pháp hòa bình giải
quyết tranh chấp này và quan trọng hơn đó là tuân thủ phán quyết của cơ quan
tài phán quốc tế chính là điều thiết thực để giúp các nước nhỏ như Việt Nam
và Thái Lan có lòng tin rằng Trung Quốc thực sự thực hiện “trách nhiệm” của
“một nước lớn”.
(Theo
Dân trí) Nguyễn Tất Thành
Đại sứ Việt |
Thứ Ba, 8 tháng 7, 2014
Đăng ký:
Đăng Nhận xét (Atom)
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét