16:16
Phá giá VND:
“Trái chiều quan điểm cũng là điều hay”
Gần đây,
tỷ giá USD/VND không nhiều biến động trên thị trường, song lại xáo động trong
các quan điểm trái chiều về hướng điều hành.
Là
tiến sỹ kinh tế chuyên về lý thuyết tỷ giá hối đoái, ông Trương Văn Phước,
Tổng giám đốc Ngân hàng Xuất nhập khẩu Việt Nam (Eximbank), cho rằng những
quan điểm trái chiều hiện nay không hẳn là mâu thuẫn, vì tỷ giá luôn là một
vấn đề quan trọng, phức tạp dưới những góc nhìn khác nhau, và nó hấp dẫn.
Không nên chủ động phá giá VND
Những ngày gần đây, một số chuyên gia cùng hướng về khuyến nghị
Việt Nam cần phá giá VND trong năm nay với mức độ từ 3 - 4%, và tiếp tục như
vậy trong những năm tiếp theo. Nguyên do chủ yếu là VND đang bị định giá quá
cao, khoảng 20 - 21% so với USD, do tỷ giá quá ổn định gần hai năm qua gây
khó khăn cho xuất khẩu… Theo ông, liệu có nên chủ động phá giá như vậy không
và vì sao?
Tỷ
giá hối đoái luôn là đề tài hấp dẫn cho giới học thuật tranh luận, và các lực
lượng thị trường suy đoán, dự báo. Có hai biến số kinh tế vĩ mô của các nền
kinh tế mới nổi như Việt
Bây
giờ nói về tỷ giá USD/VND đang là thế nào, thì cũng phải đứng trên nhiều giả
định. Với những giả định đó, thì ta mới có thể nói hết sức tương đối rằng giá
trị thực của đồng tiền Việt
Tính
từ 2008 đến nay, VND đã mất giá trên 30%, từ mức xấp xỉ 16.000 đồng, nay đang
tiệm cận mức 21.000 VND/USD. Kim ngạch xuất khẩu của nước ta trong 5 năm qua,
chỉ trừ năm 2009 giảm 10% do các tác động tức thời của khủng hoảng kinh tế
thế giới, đều tăng với một tốc độ cao; năm 2011 tăng 34%, 2012 tăng 19%.
Không
ai phủ định quy luật “đồng tiền giảm giá thì hỗ trợ cho xuất khẩu” cả. Nhưng
cũng cần phải lưu ý rằng bản thân tỷ giá riêng lẻ nó không quyết định cho tốc
độ tăng trưởng xuất khẩu, vì kim ngạch xuất khẩu có thể xem như là một hàm
nhiều biến, mà tỷ giá hối đoái chỉ là một biến số.
Trong
5 năm vừa qua, tính trung bình thì hàng năm lãi suất VND cao hơn USD khoảng
10% trong khi bình quân tỷ giá VND giảm so USD là 6%/năm. Cho nên, có một lực
đẩy thực tế của thị trường theo chiều đi xuống không cho USD tăng giá nhiều
thêm vì người nắm giữ VND vẫn hưởng lợi ròng là 10% - 6% = 4%.
Vả
lại, xuất khẩu ở Việt
Còn
tỷ giá thì bị/được thị trường điều tiết một cách lạnh lùng, vì nó dựa vào quy
luật ngang giá lãi suất, dựa vào kỳ vọng, dựa vào mơ ước của thị trường. Nói
một cách nôm na, đồng tiền nào có lãi suất cao thì lợi thế tăng giá nhiều hơn.
Trong
5 năm vừa qua, tính trung bình thì hàng năm lãi suất VND cao hơn USD khoảng
10% trong khi bình quân tỷ giá VND giảm so USD là 6%/năm. Cho nên, có một lực
đẩy thực tế của thị trường theo chiều đi xuống không cho USD tăng giá nhiều
thêm vì người nắm giữ VND vẫn hưởng lợi ròng là 10% - 6% = 4%.
Ông nói chưa thấy thuyết phục về kết quả định giá trên, cụ thể
chưa thuyết phục thế nào?
Ở
đây cần phải nói thêm về khái niệm “định giá”. Khái niệm này chủ yếu nằm
trong cơ chế tỷ giá cố định. Nêu khái niệm này trong cơ chế tỷ giá đặc thù
của Việt
Theo
tôi, trong môi trường đó cần tiếp cận khái niệm “ngang giá tiền tệ” thay cho
“định giá” thì đúng hơn. Xác định mức “ngang giá tiền tệ” này là việc phức tạp
nhưng có thể làm được. Lựa chọn “năm cơ sở” là việc khó nhất, vì nó phụ thuộc
vào quan điểm, vào giả định các điều kiện tối ưu của nền kinh tế…
Ý
kiến riêng của tôi dựa trên những tính toán của riêng mình thì VND đang tịnh
tiến về “vùng tỷ giá mục tiêu” theo các nguyên tắc xác lập mức “ngang giá
tiền tệ”, nên không cần thiết, và không nên phá giá VND. Nhưng điều này cũng
không có nghĩa là cố định tỷ giá, mà tùy vào nhiều yếu tố để Ngân hàng Nhà
nước điều hành chính sách tỷ giá trên nền tảng cơ chế tỷ giá hối đoái đã lựa
chọn.
Chưa thấy thuyết phục là nhìn nhận của ông, nhưng nếu đó là một
thực tế thì theo ông nó đi cùng với những bất cập gì và hướng xử lý?
Tôi
hơi ngạc nhiên về ý kiến “VND bị định giá cao” mà số liệu còn nêu cụ thể “20
- 21% so với USD”. Như tôi đã trình bày ở trên, việc lựa chọn “năm cơ sở” là
rất quan trọng trong các mô hình tính toán tỷ giá thực. Nó như là những “cột
mốc” cần phải đuổi theo “cỗ xe” hội nhập kinh tế thế giới. Vì trong quá trình
toàn cầu hoá, các tiến bộ khoa học kỹ thuật, các chính sách kinh tế và thương
mại quốc tế, quá trình tự do hoá các dòng vốn, hiện tượng xuất khẩu lạm phát…
làm cho các mô hình tính toán tỷ giá phải được điều chỉnh các biến số rất
nhạy bén.
Cho
nên tôi không cho rằng ý kiến nêu trên là chính xác. Hãy quan sát thị trường,
xem thanh khoản trên thị trường ngoại hối thế nào, cung cầu ngoại tệ ra sao,
các chỉ số kinh tế vĩ mô khác biến động bao nhiêu, kể cả sự tăng hay giảm giá
của đồng USD so với các đồng tiền của các quốc gia khác mà Việt Nam có quan
hệ về thương mại, đầu tư, vay nợ… để có các ứng xử phù hợp. Đó là cách mà tôi
nghĩ Ngân hàng Nhà nước đang và sẽ tiếp tục làm như thế.
Tăng dự trữ ngoại hối đâu đơn giản!
Có một tính toán đưa ra là, nếu Việt
Nếu
có một nhà toán học nào chịu khó ngồi mô hình hoá quan hệ giữa tỷ giá hối
đoái và mức tăng, giảm dự trữ ngoại hối thì mô hình đó, theo tôi nghĩ, xác
lập tương quan “phi tuyến tính”, chứ không có quy luật “tỷ giá tăng α thì dự
trữ tăng β”. Mức tăng dự trữ ngoại hối đâu đơn giản như thế được!
Chỉ
có một quy luật đơn giản tác động lên kho dự trữ của bất kỳ một loại hàng hoá
nào, đó là lượng xuất và nhập hàng ra vào kho. Dự trữ ngoại hối của nước ta
năm rồi tăng mạnh, đó là do xuất khẩu ta tăng cao hơn mức mức tăng của nhập
khẩu, tạo ra hiện tượng xuất siêu. Không bàn sâu xa xuất siêu tác động ra sao
đến nền kinh tế, phải thừa nhận rằng xuất siêu đã cải thiện cán cân vãng lai
tốt hơn nhiều so với trước. Cùng với thặng dư trên cán cân vốn, xuất siêu đã
làm cán cân thanh toán tổng thể tốt hơn, dự trữ ngoại hối tăng cao hơn trước.
Trở
lại với khuyến nghị trên của một số chuyên gia, có một điểm ngoài chuyên môn
thế này: dễ nhận thấy có một mâu thuẫn trong dư luận, những năm trước tỷ giá
USD/VND liên tục biến động và tăng mạnh, yêu cầu đặt ra căng thẳng là Ngân
hàng Nhà nước phải bình ổn và giữ ổn định. Nay, giữ ổn định được rồi thì lại
là áp lực yêu cầu “phải” phá giá. Ông có thể nói về mâu thuẫn này không, hay
đó là áp lực luôn có?
Cũng
phải công tâm mà nhìn nhận rằng có một quy luật khách quan, phổ biến là ở đất
nước nào mà sức mua đối nội của đồng tiền, biểu hiện qua lạm phát, giảm xuống
thì cũng kéo theo sức mua đối ngoại của đồng tiền đó, biểu hiện qua tỷ giá,
thấp đi.
Mấy
năm rồi lạm phát của nước ta tăng cao, tạo ra một tâm lý đồng tiền liên tục
mất giá. Thực ra Ngân hàng Nhà nước cũng đã điều chỉnh tỷ giá bình quân liên
ngân hàng và biên độ dao động cho phép phù hợp với các điều kiện của thị
trường nên đã đem đến sự ổn định của tỷ giá. Chứ mấy năm trước tỷ giá cũng
rất nhiều biến động.
Luôn
luôn có những ý kiến bình luận về tỷ giá, suy cho cùng, cũng là một điều hay.
Vì nhờ đó các cơ quan quản lý luôn đặt mình trong một trạng thái phải quan
sát thường trực các biến động của thị trường ngoại hối. Còn các loại ý kiến,
tôi cho là cũng có một mức độ chính xác nào đấy chứ không có mâu thuẫn gì cả,
vì tỷ giá luôn là một vấn đề quan trọng và phức tạp. Mỗi người có quyền tiếp
cận ở những chiều khác nhau.
Năm nay tỷ giá sẽ biến động theo chiều tăng
Năm nay, Ngân hàng Nhà nước không nêu định hướng kiểm soát khoảng
biến động cụ thể của tỷ giá USD/VND như năm ngoái. Còn ông, có dự tính của
mình hay một dự báo có thể chia sẻ không?
Công
bố trước tỷ giá sẽ là bao nhiêu trong một năm có ưu điểm và nhược điểm mà
người làm chính sách phải cân nhắc.
Ưu
điểm là làm cho các lực lượng thị trường có liên quan đến tỷ giá tính toán dễ
dàng hơn, ở một khía cạnh nào đó như là được bảo hiểm ngầm. Nhược điểm là
định hướng trước tỷ lệ % tăng giảm tỷ giá, vô hình trung làm méo mó kỳ vọng
thị trường và các hệ quả có thể không tốt xảy ra. Vì chẳng may từ lý do nào
đó tỷ giá không như thế thì sao?
Nhưng
vì tôi không phải là người làm chính sách tỷ giá nên việc dự báo có vẻ thoải
mái hơn. Dự báo của tôi có thể chính xác hoặc không. Nhưng tôi phải đảm bảo
dự báo này là trung thực từ tính toán, suy đoán của mình.
Tôi
nghĩ, tăng tỷ giá nhiều trong năm nay không có lợi. Cần quan tâm quy luật
cộng hưởng, truyền dẫn qua lại giữa tỷ giá hối đoái và lạm phát. Nếu năm nay
kinh tế từng bước phục hồi thì cầu nhập khẩu sẽ tăng lên. Có dự báo kim ngạch
nhập khẩu năm nay trên 130 tỷ USD. Nếu tỷ giá tăng mạnh thì lạm phát sẽ bị
ảnh hưởng. Nếu lạm phát không được kiềm chế tốt sẽ tác động ngược lại, buộc
tỷ giá phải tăng lên. Nghĩa vụ nợ đến hạn của quốc gia cũng là một chủ đề cần
tính toán kỹ khi xem xét tỷ giá… Đó là nền tảng suy nghĩ của tôi khi dự báo
rằng, năm nay tỷ giá sẽ biến động theo chiều tăng, từ 2 - 3%.
Theo Minh Đức (
Economy)
|
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét