16:38
Xóa bỏ nghịch lý
trong đầu tư công
Cụm từ “đầu tư công dàn trải và kém
hiệu quả” xuất hiện tương đối thường xuyên trên các mặt báo bàn về những bất
cập trong đầu tư công ở Việt
Vụ bê bối của Tập đoàn kinh tế nhà nước Vinashin với dự án
tàu vận tải biển tuyến Bắc - Nam, chi ra cả 1.000 tỉ đồng nhưng lại hoạt động
kém hiệu quả, hay Vinalines với dự án đầu tư xây dựng Dự án Nhà máy sửa chữa
tàu biển Vinalines phía Nam, gây thiệt hại lớn về kinh tế là minh chứng điển
hình cho sự hoang phí nguồn nhân lực và tài nguyên. Hay con số mà các chuyên
gia bắt mạch căn bệnh "nghiện đầu tư công" đã chỉ ra: trong lòng
một nền kinh tế với GDP mới 130 tỉ USD mà sở hữu tới 100 cảng biển, 18 khu
kinh tế ven biển, 30 khu kinh tế cửa khẩu, hơn 650 cụm công nghiệp.
Kém hiệu quả, hai nguyên nhân chính
Năm 2011, để chống chọi lại với lạm phát gia tăng, Chính
phủ đã rất đau đầu trong công tác cắt giảm đầu tư công kém hiệu quả. Tuy
nhiên, có một nghịch lý: trong khi chủ trương chung là thắt chặt chi tiêu và
giảm đầu tư công, thì số liệu cuối năm của Bộ Kế hoạch và Đầu tư (KH-ĐT) công
bố tỷ lệ đầu tư dự án công cả nước vẫn chiếm 40% GDP, kèm theo nhận xét hiệu
quả đầu tư còn thấp. Đáng ngạc nhiên hơn là trong bối cảnh khó khăn như vậy,
báo chí lại tiếp tục đưa tin về những danh mục đầu tư công mới 2012 do Viện
Nghiên cứu quản lý kinh tế Trung ương trình với Chính phủ với tổng vốn lên
đến 300 tỉ USD.
Mặt khác, trong khi các dự án mới liên tục được cấp phép
và được nghiên cứu thì nhiều dự án cũ vẫn chưa tiến hành xong, chậm trễ tiến
độ thi công, hay thậm chí còn... nằm trên giấy. Sự lệch pha giữa các kế hoạch
muốn thực hiện và được thông qua với mức độ khả thi, ít nhất xét về khía cạnh
tài chính có thể quan sát được qua con số của Bộ KH-ĐT: Để tiêu thụ hết số dự
án đã được thông qua, mỗi năm cần một số tiền lớn hơn tổng mức đầu tư toàn xã
hội. Có quá nhiều dự án được phê duyệt chỉ "cho có", không tiến
hành thực hiện. TS Phan Thanh Hà, Vụ phó Vụ Tài chính và Tiền tệ, Bộ KH-ĐT
đúc kết: "Chúng ta phê duyệt quá nhiều dự án vượt khả năng nguồn lực
hiện có, kế hoạch đầu tư bị cắt khúc ra nhiều năm, còn việc thực hiện dự án
thì theo kiểu xếp gạch giữ chỗ".
Kém hiệu năng, chưa minh bạch trong quá trình thực hiện,
tư duy nhiệm kỳ hay bị lợi ích nhóm chi phối... là những nét chấm phá trên
bức tranh đầu tư công còn nhiều nghịch lý của Việt
Chẳng hạn, mô hình phân cấp đầu tư của nước ta từ năm 2006
đến nay được ví von như mô hình "phân cấp trắng", Bộ KH-ĐT gần như
không có vai trò trong việc cân đối giữa nhu cầu và khả năng cung ứng. Cơ chế
của đầu tư gần như là quá trình "xin - cho" giữa hai bên vốn là "cặp
bài trùng" trong từng khoảng lợi ích: Các ngành và địa phương quyết định
dự án đầu tư, còn nguồn vốn là "xin từ ngân sách Trung ương".
Do đó, nhiều trường hợp các doanh nghiệp nhà nước (DNNN)
và các tỉnh, trung ương sẽ liên kết giành lấy những dự án béo bở và củng cố
ảnh hưởng lẫn nhau, với mục đích đôi bên cùng có lợi. Trong mối quan hệ này, đã
thiếu đi một cơ quan đủ "tầm" để kiểm soát tính hiệu quả của các dự
án và lưu thông dòng vốn. Tình trạng thiếu vốn của các dự án khởi công là một
hệ quả khó tránh khỏi, đồng thời kéo theo việc bất cân đối trong đầu tư, sử
dụng công nghệ thiết bị lạc hậu, kéo lùi tiến độ thực hiện, đầu tư thiếu tập
trung và dứt điểm cho các công trình trọng điểm...
Những hệ quả và sự cần thiết của một
"cơ chế hiệu năng" mới
So với các DNNN, các doanh nghiệp tư nhân phản ứng nhanh
nhạy hơn với thị trường và những cơ hội mới. Nhưng các DNNN lại được đầu tư
nhiều hơn các doanh nghiệp tư nhân về cả công nghệ, kỹ thuật, nguồn nhân lực,
được Nhà nước hỗ trợ thông qua các chính sách ưu đãi, được ưu tiên tiếp cận
vốn tín dụng, thậm chí còn được Nhà nước bảo lãnh trong việc đi vay nợ lớn từ
các nước với lý do là hoàn thành các đơn đặt hàng từ Nhà nước. Dù có những ưu
thế gần như tuyệt đối về mọi mặt, DNNN lại không thể tạo nên một sự vượt trội.
Nhưng dù sao, với sự hậu thuẫn như vậy, một số DNNN lớn đã trở thành lực
lượng mạnh có ảnh hưởng trực tiếp đến sự phát triển của nền kinh tế Việt
Ðiều này kìm hãm tăng trưởng về năng suất, bởi các doanh
nghiệp nhỏ không thể đầu tư vào các công nghệ tiên tiến hoặc đạt được lợi thế
kinh tế theo quy mô thông qua việc tổ chức và quản trị có hiệu quả hơn. Sự thiếu
vắng những công ty với quy mô lớn và được quản lý một cách chuyên nghiệp
trong khu vực công và tư đã giới hạn hoạt động sản xuất của Việt
Khi địa phương nào cũng thấy đặc thù của mình là có một
không hai, có khả năng tạo thành lợi thế cạnh tranh để đưa tỉnh nhà cất cánh,
cộng với sự liên kết không chặt chẽ ở hàng ngang giữa các bộ chủ quản, ngân hàng
và các DNNN, thì đánh giá hay thẩm định dự án sẽ mang tính cục bộ hoặc người
nhà "xem xét với nhau". Bởi vậy, "63 vùng kinh tế" không
mang tính liên kết đồng bộ tương ứng với 63 tỉnh, thành, cùng với hàng loạt dự
án chậm trễ, thất thoát, lãng phí trong những năm vừa qua là những hệ quả trực
tiếp từ sự bất đồng bộ của cơ chế này.
Nguyên Phó thủ tướng Vũ Khoan từng phát biểu rằng:
"Gốc rễ của tái cơ cấu đầu tư công là nhất thiết cần điều chỉnh tư duy
đầu tư công bằng các cách làm cụ thể. Đã đến lúc cần tập trung chất thay vì
lượng, nếu không thì đầu tư công sẽ tiếp tục dàn trải và còn nhiều hệ quả chờ
đợi phía trước". Điều chỉnh tư duy ở đây, Phó thủ tướng nhấn mạnh hàm ý
về việc nâng cao hiệu quả đầu tư, mà yếu tố "chất lượng" thay vì
"số lượng" giữ vai trò kim chỉ nam. Và để có thể từ chối cái lợi
trước mắt, hướng tới các công trình có chất lượng thì một "cơ chế hiệu
năng" trong việc đánh giá và xét lọc các dự án phải được thành lập,
trong đó yếu tố phân cấp quyền và trách nhiệm trong việc cấp phép đầu tư phải
được lựa chọn như tiêu chí hàng đầu.
Nghịch lý đầu tư công là bất cập về chức năng và mâu thuẫn
lợi ích trong bộ máy điều hành. Loại bỏ hay ít nhất có biện pháp chế tài
những yếu tố này là chìa khóa của mọi chìa khóa để cải thiện bức tranh màu
xám của đầu tư công nước ta thời gian tới.
(Theo DNSG
cuối tuần) Trương Minh - Lê Trân
|
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét