13:01
Trung Quốc
trong chiến lược độc chiếm biển Đông
Ý đồ độc chiếm biển Đông và
luận điệu phi lý của Trung Quốc lộ rõ từ lịch sử hành chính Hải
|
|
|
Ngoài các chính sách bóc lột hà khắc về mặt kinh tế, chính
quyền phong kiến Trung Quốc vẫn dùng phương pháp chia để trị. Họ chia nhỏ các
bộ lạc người Lê, bắt sống rải rác xen kẽ với các bộ lạc người Mông di cư từ
tây nam Trung Quốc đến sau này. Trong vòng 19 thế kỷ tiếp theo, các chính
quyền phong kiến Trung Quốc tiếp tục cho di dân đến và áp dụng chính sách
đồng hóa để biến Hải Nam
thành lãnh thổ của mình.
Từ thời Đường (618 - 906) đến năm 1909, Hải Nam
vẫn bị coi là vùng biên giới “lam sơn chướng khí” và dùng làm nơi đày ải tù
chính trị. Người bị đi đày nổi tiếng nhất ở đây có lẽ là nhà thơ Tô Đông Pha
(1036-1101).
Sự cách biệt với nền văn hóa lục địa Trung Quốc, nạn cướp
biển ven bờ, bệnh sốt rét ác tính cùng với sự nổi dậy thường xuyên của các bộ
lạc bản xứ đã ngăn cản chính quyền Trung Quốc đưa người Hoa đến đây định cư với
quy mô lớn. Hơn nữa, khí hậu nhiệt đới khác xa với đại lục, không thích hợp
với kinh tế của người Hoa cũng là nguyên nhân làm cho nền kinh tế trên đảo
chậm phát triển và người Hoa không muốn định cư ở đây. Những nguyên nhân
khách quan này cản trở chính sách tiến xuống biển Đông của các triều đại
Trung Quốc. Vì vậy, đến những năm cuối thế kỷ 19 đầu thế kỷ 20, các chính
quyền Trung Quốc đều coi lãnh thổ của mình chỉ bao gồm từ đảo Hải Nam trở lên
phía Bắc.
Đã có nhiều sự kiện, bằng chứng được ghi nhận trong sách
vở Trung Quốc và Việt Nam chứng tỏ cương giới cực nam của Trung Quốc đến đầu
thế kỷ 20 chỉ ở bờ biển phía nam đảo Hải Nam. Các quần đảo Hoàng Sa - Trường
Sa không thuộc lãnh thổ Trung Quốc. Trong thời gian đó, nhà nước phong kiến
Việt Nam
đã làm chủ thực sự và tổ chức đội Hoàng Sa đi khai thác 2 quần đảo của mình.
Bản đồ của Trung Quốc đến đầu thế kỷ 20 chỉ vẽ lãnh thổ đến đảo Hải Nam - Ảnh: Đại Thanh nhất thống toàn đồ xuất bản năm 1894 với đảo nhỏ phía dưới là Hải Nam, gần đó bên trái là Giao Chỉ (VN) - Nguồn: Biengioilanhtho.gov.vn |
Tham vọng và mưu đồ
Từ năm 1909, Trung Quốc mới bộc lộ tham vọng trên biển
Đông. Theo lệnh Phó vương Lưỡng Quảng, Đô đốc Lý Chuẩn đem một số pháo thuyền
nhỏ đến một vài đảo của Hoàng Sa, bắn vài phát súng rồi vội vã rút lui dù khi
đó quần đảo này đã có chủ. Từ đó, Trung Quốc bắt đầu có những hành động tranh
chấp chủ quyền đối với 2 quần đảo trên biển Đông của Việt Nam .
Năm 1932, Trung Quốc chính thức nêu yêu sách tiến xuống
phía nam tới quần đảo Hoàng Sa. Trong Công hàm 29.9.1932 của đại diện Trung
Quốc tại Paris
gửi chính phủ Pháp chỉ nêu yêu sách quần đảo Tây Sa (Hoàng Sa): “Tây Sa là bộ
phận lãnh thổ cực nam của Trung Quốc”. Với công hàm này, Trung Quốc chưa hề
yêu sách đối với Trường Sa. Những dữ kiện nói trên càng chứng tỏ lập luận
Trung Quốc có “chủ quyền từ lâu đời” trên 2 quần đảo là không có cơ sở. Tiếp
đó, họ chưa làm thêm được gì thì đảo Hải Nam bị quân đội Nhật chiếm đóng
từ 1939 đến năm 1945.
Tháng 4.1950, phe Tưởng Giới Thạch phải từ bỏ Hải Nam .
Từ đó, nơi đây được xem là một bàn đạp quan trọng trong chiến lược xâm chiếm
biển Đông, vốn được đẩy lên mức hơn hẳn các chế độ trước đó.
Cùng năm, một nhà xuất bản Trung Quốc cho ra bản đồ “Trung
Hoa Nhân dân Cộng hòa quốc phân tỉnh tinh đồ”. Trong đó, điểm cực nam không
còn ở đảo Hải Nam nữa mà nó đã được đưa xuống phía nam hơn 1.500 km, tới tận vĩ
tuyến 40 bắc, gần bờ biển Malaysia. Theo bản đồ này, đường “lưỡi bò” trên
biển ôm trọn tới 80% biển Đông, bao gồm cả 2 quần đảo Hoàng Sa và Trường
Sa của Việt Nam. Tham vọng quá đáng của Trung Quốc xâm phạm chủ quyền lãnh
thổ và các vùng biển thuộc quyền tài phán quốc gia Việt Nam và một số nước Đông Nam Á.
Tiếp theo “chính sách xâm lược bằng bản đồ”, vào ngày
15.8.1951, Thủ tướng kiêm Ngoại trưởng Trung Quốc Chu Ân Lai tuyên bố yêu
sách về vùng biển và hải đảo theo bản đồ nói trên. Từ đó, Bắc Kinh tích cực
bắt tay chuẩn bị hành động. Nhưng do tình hình quốc tế lúc bấy giờ và lực
lượng hải quân còn yếu nên tham vọng trên hướng biển vẫn còn có mức độ. Năm 1956,
lợi dụng quân đội Pháp rút khỏi Đông Dương, quân đội Sài Gòn chưa kịp ra thay
thế ở Hoàng Sa, Trung Quốc bí mật đưa quân đổ bộ, chiếm đóng đảo Phú Lâm và
Linh Côn thuộc nhóm phía đông của quần đảo Hoàng Sa.
Tháng 1.1974, sau khi ký Thông cáo chung Thượng Hải và với
sự làm ngơ của Mỹ, Trung Quốc huy động lực lượng kết hợp hải quân, không quân
đánh chiếm nốt nhóm phía tây của QĐ Hoàng Sa. Chỉ huy chiến dịch mở mang bờ
cõi bất hợp pháp này là ông Đặng Tiểu Bình và tướng Diệp Kiếm Anh.
Bằng chứng về luận điệu thiếu cơ
sở của Trung Quốc
- Nhiều sách báo phương Tây ghi lại sự kiện
khoảng năm 1895, 1896 tàu Bellona của Đức và tàu Ymedi Maru của Nhật chở
hàng cho Anh bị đắm ở khu vực quần đảo Hoàng Sa, cách đảo Hải Nam 140 hải
lý về phía nam. Người Trung Quốc ở đảo Hải
- Hàng loạt tài liệu, bản đồ chính thức và bán
chính thức của Trung Quốc cho đến đầu thế kỷ 20 đều chỉ vẽ lãnh thổ Trung
Quốc đến đảo Hải Nam. “Hoàng triều nhất thống dư địa tổng đồ” xuất bản năm 1894,
“Đại Thanh đế quốc toàn đồ” xuất bản 1905, tái bản 1910 thể hiện rõ ràng
điểm cực nam của Trung Quốc ở bờ nam đảo Hải Nam, và cuốn Trung Quốc địa lý
giáo khoa thư xuất bản 1906 ghi rõ: Điểm cực nam Trung Quốc là Châu Nhai,
Quỳnh Châu (tức Hải Nam). Sợ không chính xác, cuốn sách này còn nói rõ
thêm: điểm cực nam đó ở vĩ tuyến 18 độ 13’ bắc.
- Trong cuốn Phủ biên tạp lục của nhà bác học
Việt Nam Lê Quý Đôn viết năm 1776 cũng ghi lại một sự việc: Năm 1754,
thuyền của đội Hoàng Sa do Chúa Nguyễn phái ra khai thác Hoàng Sa bị đứt
dây neo, trôi dạt vào cảng Thanh Lan thuộc đảo Hải Nam. Các quan sở tại đã
tra xét những người ở trên thuyền, khi biết là người của đội Hoàng Sa Việt Nam,
đã chu cấp tiền, gạo cho về quê mà không hề phản đối gì. Chúa Nguyễn còn
sai người viết thư cám ơn.
|
Tiến sĩ Hoàng Trọng Lập (*)
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét