10:01
Cắt
"sở hữu chéo" trị nợ xấu
"Chặn" vốn vào sản
xuất, rủi ro hệ thống do tỷ lệ vượt quá giới hạn an toàn... Sức ép giải quyết
nợ xấu là có thật. Tuy nhiên, nếu không phân loại nợ xấu và "cắt"
tình trạng "sở hữu chéo" ở các ngân hàng (NH), xử lý nợ xấu
sẽ rơi vào tình trạng "quýt làm cam chịu" và không "trị"
tận gốc căn bệnh này trong hệ thống NH của chúng ta.
Sở hữu chằng chịt
Theo NHNN, nợ xấu chiếm khoảng 10% trong toàn hệ thống,
tương đương với 258.000 tỉ đồng (khoảng 12 tỉ USD). Đây là một tỷ lệ rất cao
và rủi ro. Nếu không giải quyết món nợ này, các NH vẫn tiếp tục huy động,
nhưng để nuôi nợ xấu chứ không thể cấp vốn cho sản xuất. Nói vậy để thấy, sức
ép giải quyết nợ xấu là hết sức cấp thiết. Tuy nhiên, chúng ta đều biết, bản
chất của các NH cổ phần tại VN là sở hữu chéo chằng chịt. Chuyện một cổ đông
lớn, một nhóm đầu tư sở hữu cổ phần ở nhiều NH; NH này sở hữu NH kia; các tập
đoàn, doanh nghiệp sở hữu NH, thành lập các mô hình công ty cổ phần đầu tư
tài chính để làm "sân sau" cho NH... rất phổ biến, gây ra một loạt
các hệ lụy.
Đơn cử, theo quy định, NH không được cho chính người sở
hữu vay vốn nhưng nhờ "sở hữu chéo" như nói trên, hầu hết các NH cổ
phần đều cho chính chủ của mình vay vốn thông qua việc cho công ty con, công
ty trực thuộc, công ty liên đới, công ty bạn, công ty của những công ty
con... vay. Vào thời điểm kinh tế tăng trưởng thuận lợi, ai cũng có tiền để quay
vòng thì mọi chuyện đều ổn.
Nhưng vào lúc kinh tế gặp khó khăn như mấy năm gần đây,
nhiều khoản vay này trở thành nợ xấu khi "sân sau" gặp khó khăn
không thể trả; thậm chí nhiều khoản nợ xấu, NH cũng không ráo riết thu hồi vì
"người nhà vay". Uớc tính của chuyên gia tài chính Nguyễn Trí Hiếu,
người thành lập NH First Vietnamese-American Bank, NH người Việt đầu tiên tại
Mỹ, khoản nợ xấu từ các "sân sau" này chiếm không dưới 25% trong
tổng nợ xấu của toàn hệ thống NH, tương đương giá trị 65.000 tỉ đồng.
Với bản chất "sở hữu chéo" này, nếu xử lý nợ xấu
theo cách mà chúng ta đang đưa ra hiện nay (giãn nợ, gia hạn nợ, mua nợ xấu
cho toàn hệ thống NH) sẽ dẫn đến tình trạng tiền thuế của dân được sử dụng để
"cứu" các ông chủ NH, các nhóm lợi ích.
Không chỉ vậy, "sở hữu chéo" còn đẩy hệ thống NH
của ta đến tình trạng cực kỳ rủi ro. Đơn cử theo quy định hiện nay, vốn pháp
định tối thiểu của NH phải là 3.000 tỉ đồng. Nhưng với sở hữu chéo, các NH
hoàn toàn có thể "lách" thông qua việc vay vốn từ NH này, góp cho
NH kia và ngược lại. Cả 2 NH này đều báo cáo tăng vốn, các ông chủ NH cũng
tăng sở hữu nhưng thực chất chỉ là tăng ảo. Như vậy, quy định an toàn vốn bị
vô hiệu hóa. Cũng có nghĩa là, nếu loại bỏ yếu tố “sở hữu chéo”, vốn thực chất
của các NH bị rút xuống thấp hơn nhiều so với con số công bố hiện nay. “Sở
hữu chéo” cũng giúp các NH "phù phép" nợ xấu khi cần thiết. Họ có
thể chuyển khoản nợ này từ NH này sang NH kia. Thay vì nói là dư nợ cho vay
thì gọi là tài sản khác, ủy thác đầu tư... Bằng cách này, không chỉ các quy
định nợ xấu bị vô hiệu hóa, NH còn không phải trích dự phòng rủi ro.
Tác hại của chuyện "sở hữu chéo" là đổ vỡ. Đó là
lý do Mỹ và hầu hết các nước trên thế giới tuyệt đối cấm “sở hữu chéo” trong
ngành NH.
Không mua nợ "sân sau"
Giải quyết nợ xấu là cần thiết nhưng vì sở hữu chằng chịt
như phân tích trên, nợ xấu của hệ thống NH nhất thiết phải được phân loại cụ
thể trước khi xử lý. Nợ xấu nào nhà nước có thể đứng ra "dọn dẹp"
nhằm khơi vốn vào sản xuất; loại nợ xấu nào NH tự chịu trách nhiệm phải tách
bạch, rõ ràng để không lấy vốn ngân sách phục vụ nhóm lợi ích.
Tiến sĩ Lê Trọng Nhi, chuyên gia tài chính NH, cho rằng
không khó để nhận dạng các loại nợ xấu này, vấn đề là NHNN muốn làm hay
không. Sử dụng khái niệm "nợ xấu giả" cho loại nợ xấu từ "sân
sau" của các NH cổ phần; nợ từ việc cho vay quá số vốn cần thiết ở các
dự án công... ông Nhi cho rằng nếu làm đúng, đủ, các loại nợ xấu này đã
"ăn cụt" vốn của không ít NH.
Tiến sĩ Nguyễn Trí Hiếu cũng khẳng định khi vấn đề nợ xấu
được giải quyết trên tầm mức quốc gia, nên tách bạch loại nợ xấu. Những món
nợ đúng quy định, với một giới hạn tối đa dựa trên vốn chủ sở hữu của NH cho
vay (15% cho một khách hàng có liên quan, và 25% cho nhóm khách hàng có liên
quan). Những loại tín dụng đã giúp doanh nghiệp có vốn làm ăn và đóng góp
nhiều cho nền kinh tế; Nợ trong trường hợp người đi vay gặp khó khăn thật sự,
cần được hỗ trợ hoặc xử lý công bằng và nghiêm túc. Còn những món nợ xấu cho
vay trong mối quan hệ chồng chéo, quan hệ "sân sau" thì các NH phải
chịu trách nhiệm. "Với loại nợ xấu mà người đi vay là những bên liên
quan, đã vay được những món tiền hậu hĩnh với những điều kiện ưu đãi. Nay
những người này lại mất khả năng thanh toán lại được nhà nước cứu thì hóa ra
cả nền kinh tế đang “vỗ béo” cho các đại gia, các nhóm lợi ích và các NH được
sử dụng như là một sân sau của các thế lực tài chính", ông Hiếu
nói.
Ông Nguyễn Xuân Thành, Giám đốc Chính sách công của Chương
trình Giảng dạy kinh tế Fulbright, phân tích doanh nghiệp đầu tư sai thì bị siết
nợ, NH cho vay sai thì cũng phải chấp nhận phá sản, sáp nhập. Không thể có
chuyện, NH kinh doanh có lãi thì hưởng, nhưng nợ xấu cao lại được nhà nước
đứng ra dọn dẹp hộ rồi NH đó, các ông chủ NH đó, vẫn tiếp tục tồn tại, tiếp
tục là ông chủ.
Xử lý nợ xấu từ “sở hữu chéo” là động chạm đến các nhóm
lợi ích. Nhưng vấn đề này không chỉ dừng ở nghịch lý việc lấy tiền thuế của
dân phục vụ "sân sau" của các NH. Với vị trí độc quyền cung cấp vốn
cho nền kinh tế, "sức khỏe" của hệ thống NH có tác động trực tiếp
tới sức khỏe nền kinh tế. Nếu vẫn để tình trạng này tiếp diễn, rủi ro hệ
thống là rất lớn. Xử lý nợ xấu NH một cách minh bạch, sòng phẳng, công khai
để thực hiện quyết tâm tái cơ cấu NH của Chính phủ, người dân đang chờ đợi
câu trả lời từ NHNN.
Nguyên Hằng
|
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét