Chi 19.000 tỷ đồng đào than/năm:
Than rẻ sao không nhập?
Cập nhật lúc 09:15
(Thị trường) - Trữ lượng than của Việt Nam không nhiều cho
nên chúng ta nên để dành tài nguyên trong nước bằng việc đẩy mạnh nhập khẩu
than.
Đó là khẳng
định của PGS.TS Trương Duy Nghĩa, Chủ tịch Hội Khoa học Nhiệt Việt Nam với
Đất Việt xung quanh Quy hoạch phát triển ngành than đến năm 2020, xét đến
2030 mới được Chính phủ ban hành năm 2016.
PV: - Theo Quy hoạch
phát triển ngành than đến năm 2020, xét đến 2030 mới được Chính phủ ban hành
năm 2016, nhu cầu sử dụng than của Việt Nam thời gian tới sẽ liên tục tăng.
Cụ thể đến năm 2020 là 86,4 triệu tấn, năm 2030 lên 256 triệu tấn.
Quy hoạch cũng cho biết sẽ tập trung thăm dò nâng cấp tài nguyên
than, tăng tiến độ các đề án thăm dò mới tại Bể than Đông Bắc, Bể than sông
Hồng, các mỏ than nội địa khác và đề án thăm dò than bùn…
Ông nhìn nhận như thế nào trước Quy hoạch trên? Theo ông, trữ
lượng than của Việt Nam hiện nay có đáp ứng được những vấn đề mà Quy hoạch
ngành than đề ra hay không?
PGS.TS Trương Duy Nghĩa: - Than lưu thông trên thị trường thế giới
hiện nay chủ yếu là than bitum và á bitum, là những loại than được dùng trong
các nhà máy nhiệt điện (NMNĐ) nên được gọi là Steam Coal, là loại than dễ
cháy, nhiều chất bốc.
Trong khi đó trữ lượng than của Việt Nam không nhiều, chủ yếu là
than antraxit, khó cháy, không đủ cung cấp để sản xuất điện. Sản lượng khai
thác than khoảng 70 triệu tấn/ năm (sản lượng được coi là giới hạn), trong đó
lượng than hàng năm cho điện khoảng 35-40 triệu tấn thì cũng chỉ sau vài chục
năm nữa lượng than trong nước sẽ hết.
Vì vậy với Quy hoạch phát triển ngành than đến năm 2020, xét đến
2030 mới được ban hành năm 2016 tôi cho rằng cần phải xem xét hết sức thận
trọng, đánh giá khách quan giữa tình hình trong nước và thị trường thế giới.
Thực tế để tăng sản lượng than thì cần phải đầu tư rất nhiều tiền
vào việc khai thác các mỏ. Hơn nữa từ đầu tư cho đến khi bắt đầu khai thác
nhanh cũng phải mất 5 năm. Xét trong bối cảnh hiện nay, để làm việc này cũng
không phải đơn giản.
Tôi xin được phân tích cụ thể từng Bể than mà Quy hoạch đề ra.
Thứ nhất, Bể than Đông Bắc trữ lượng không có
nhiều. Giả dụ có tìm thêm được những mỏ mới thì phải cần thêm thời gian mới
đầu tư được. Cho nên hiện nay trong quy hoạch than vẫn chỉ dừng lại ở sản
lượng có thể khai thác được 2,2 tỷ tấn.
Thứ hai, Bể than sông Hồng, trữ lượng hiện nay
khoảng 20 tỷ tấn nhưng khai thác cực khó khăn. Than ở Đồng bằng sông Hồng chủ
yếu là than nâu và than á bitum. Đây là than dùng cho nhiệt điện rất
tốt. Nhưng nó ở dưới sâu, với địa hình Đồng bằng Bắc Bộ là đất mượn nên khó
khai thác. Nếu chúng ta khai thác xuống sâu thì vấn đề hầm lò phải hết sức
chú ý. Nếu sập mỏ, nước tràn vào có thể chết công nhân. Hiện nay để giải
quyết việc này, chúng ta cũng tiến hành liên doanh với Nhật Bản và đề xuất
phương án khí hóa để chạy phát điện. Phương án này khai thác than là rẻ nhất
nhưng lại có nhược điểm quá trình khí hóa than là quá trình mất năng lượng.
Thứ ba, các mỏ than nội địa ở Thái Nguyên,
Bắc Giang, Núi Hồng, Khánh Hòa rất bé, than bùn cũng không đáng kể. Vì
vậy việc đẩy mạnh khai thác than không phải là biện pháp tốt nhất, có lợi về
kinh tế trong điều kiện hiện nay.
PV: - Quy hoạch phát
triển ngành than cũng nêu rõ, nhu cầu vốn đến năm 2030 ngành than cần là
96.566 tỷ đồng vốn đầu tư, bình quân là 19.313 tỷ đồng/năm. Giai đoạn
2021-2030 vốn đầu tư lên tới 172.437 tỷ đồng đầu tư để duy trì và mở rộng sản
xuất, bình quân vốn đầu tư ngành than mỗi năm là 17.934 tỷ đồng.
Theo ông, việc mỗi năm nhà nước bỏ ra số tiền gần 20.000 tỷ đồng
có nhiều quá không? Chúng ta nên tập trung vào dự án nào trong quy hoạch trên
thưa ông?
PGS.TS Trương Duy Nghĩa: - Theo tôi đầu tư nhiều tiền hay ít
tiền không quan trọng. Khi đầu tư vào quy hoạch than hay bất cứ 1 dự án nào
đó thì phải tính đến toàn bộ đời sống của dự án. Bên cạnh đó là điều kiện để
nó hoạt động trong đời sống đó sao cho hiệu quả kinh tế đạt được cao nhất.
Tôi lấy ví dụ, đầu tư khai thác mỏ than nhưng chỉ trong 15 năm
hết tài nguyên sẽ khác hoàn toàn với đầu tư những mỏ có thời hạn lên tới 50
năm. Để hoạt động có hiệu quả thì đầu tư phải tính toán rất kỹ.
Ngoài ra, chúng ta cũng cần xem xét tương quan về sản lượng dự án
sản xuất ra so với thị trường chung của thế giới. Việt Nam đang hội nhập sâu
rộng vào thế giới với nhiều hiệp định tự do thương mại. Trong thời gian tới
các quốc gia cùng khối Đông Nam Á như Indonesia có thể xuất khẩu than sang
Việt Nam. Do đó trước khi đầu tư phải cân nhắc lợi hại.
Tiếp theo, chúng ta đang thiếu trầm
trọng tiền. Đầu tư hơn 19.000 tỷ đồng mỗi năm cho ngành than là đầu tư công
nhằm xây dựng cơ sở hạ tầng. Đầu tư ấy làm sao phải mang lợi ích, nhanh chóng
thu hồi vốn để đầu tư tiếp cho những dự án khác. Nếu đầu tư mà chúng ta không
thu được lợi hoặc nguồn lợi kéo dài thì phải xem lại.
Trong điều kiện hiên nay, nhập khẩu không hẳn có hại nên chúng ta
phải cân nhắc việc này. Nhiều người hiện nay lo ngại rằng nếu nhập khẩu than
nhiều quá sẽ dẫn đến khủng hoảng ngành năng lượng. Tôi cho rằng đánh giá như
vậy có phần tiêu cực và hơi hình thức, giáo điều.
Các nước trên thế giới họ đều nắm bắt rất nhanh cơ chế thị
trường. Nước Anh thời nữ thủ tướng Margaret Thatcher đã đóng cửa các mỏ than
trong nước vì lương công nhân cao quá. Thay vào đó nước Anh đã quyết định
nhập than từ nước ngoài để giảm giá thành sản xuất.
Nước Nhật cũng vậy. Hàng năm họ cũng
nhập hàng trăm triệu tấn nhưng nền kinh tế vẫn phát triển rất tốt. Đấy là cái
Việt Nam phải tính. Đời sống của chúng ta lương chưa cao nên phải xem xét kỹ.
Nếu khai thác dễ thì có thể tính toán nhưng ở đây khai thác không hề đơn
giản, tốn kém nhiều hơn. Đây là bài toán mà ngành than phải cân đối chứ không
thể căn cứ vào nhu cầu rồi đặt ra sản lượng phải có.
Như tôi đã nói ở trên, trữ lượng than
của chúng ta không nhiều, để khai thác cũng rất khó khăn và tốn thời gian.
Tuy nhiên về lâu dài Việt Nam vẫn phải làm.
Đối với Bể than Đông Bắc việc thăm dò
thêm vẫn phải làm vì đó là tài nguyên của đất nước. Việc này sẽ giúp chúng ta
xác định tài nguyên rồi từ đó xác định trữ lượng có thể khai thác được phục
vụ cho các ngành kinh tế. Nhưng đây là việc lâu dài.
Còn đối với Bể than sông Hồng, việc đẩy
mạnh khai thác là cần thiết nhưng than khai thác ra phải cân đối với giá than
của thế giới. Chúng ta cần phải sử dụng tiết kiệm để dành lại cho đời sau.
Không ai đẩy mạnh khai thác than khi giá than thế giới rẻ cả.
PV: - Như ông chia
sẻ, trữ lượng than của Việt Nam hiện nay không nhiều. Hơn nữa chất lượng than
chúng ta được đánh giá kém, không thuận lợi cho các hoạt động sản xuất. Nếu
tiếp tục gia tăng sản lượng khai thác vào thời điểm này liệu có hiệu quả
không hay thưa ông? Xin ông phân tích cụ thể.
PGS.TS Trương Duy Nghĩa: - Đúng là
than của Việt Nam hiện nay chất lượng rất xấu. Các nhà máy điện đốt
than đều kêu trời vì điều này. Do đó, nếu tiếp tục đầu tư mở rộng
khai thác than thì sản xuất sẽ không hiệu quả. Việc này đương nhiên khiến giá
than của Việt Nam cao hơn so với thế giới. Đồng nghĩa với việc giá điện sản
xuất ra đắt hơn, ảnh hưởng trực tiếp đến người dân cũng như các doanh nghiệp
kinh doanh.
Vì sao lại khẳng định than Việt Nam
chất lượng kém?. Điều này những người làm trong nghề đều thừa nhận.
Thứ nhất, than Việt Nam
chủ yếu là than antraxit khó cháy (than đá già nhất). Như mỏ than Vàng Danh,
có những vỉa mà chất bốc chỉ dưới 2%, còn than phổ biến của chúng ta chất bốc
cũng chỉ khoảng 6%.
Trong khi đó than á bitum nhập khẩu của
Indonesia, chất bốc lên tới 50 %. Đó là loại than na ná như than Na Dương,
tức là có thể tự bốc cháy. Chất bốc cao nên dễ cháy kiệt dẫn đến hiệu suất
tăng lên.
Hơn nữa, than antraxit của Việt Nam
hiện nay hàm lượng cacbon chưa cháy còn lại trong tro tương đối lớn, phổ biến
từ 15-20%. Cho nên tro đen, không có màu trắng. Trong khi đó nếu đốt than á
bitum nhập khẩu nhiều chất bốc nên dễ cháy kiệt, hàm lượng cacbon còn lại
trong tro rất bé.
Thứ hai, do trong tro
có lẫn nhiều cacbon chưa cháy nên tro khó dùng làm nguyện liệu chất lượng để
sản xuất vật liệu xây dựng.
Thứ ba, tro của nhà
máy điện có thể dùng làm bê tông đầm lăn để xây dựng các đập lớn, có thể kích
thước mấy chục mét. Cho nên các đập lớn người ta không dùng bê tông đông kết
mà dùng bê tông đầm lăn như đập thủy điện Lai Châu, Sơn La, thủy nông lớn.
PV: - Có ý kiến cho
rằng Việt Nam thay vì khai thác tràn lan như hiện nay thì nên chú trọng đến
việc siết chặt vấn đề xuất lậu than diễn ra khá phức tạp thời gian qua. Quan
điểm của ông về vấn đề này như thế nào? Theo ông ngành than cần phải có sự
tính toán như thế nào để khai thác, sử dụng tốt nguồn tài nguyên trong nước
cũng như hạ giá thành sản phẩm.
PGS.TS Trương Duy Nghĩa: - Đúng là
hiện nay đang có tình trạng xuất lậu than ra nước ngoài thông qua các cửa
khẩu. Về góc độ kinh tế khi việc này xảy ra thì nhà nước mất đi nguồn thu
thuế, các công ty khai thác than cũng bị thiệt hại.
Bản chất của việc xuất lậu than nằm ở
chỗ có sự móc ngoặc với nhau để lấy lợi ích. Tuy nhiên theo đánh giá của tôi
sản lượng không phải quá nhiều. Nhưng về mặt quản lý nhà nước, chúng ta vẫn
phải siết chặt vấn đề này.
Ngoài ra, để giảm bớt nhu cầu than nội
địa cho các NMNĐ vốn được thiết kế đốt than nội địa, các NMNĐ này cần chuyển
sang đốt than trộn với than nhập khẩu. Việc này sẽ cải thiện chất lượng than
và do đó cải thiện quá trình đốt cháy than, nâng cao hiệu suất lò hơi và giảm
lượng than tiêu thụ. Đồng thời giảm bớt nhu cầu than nội địa, tranh thủ nhập
than khi giá than trên thị trường thế giới đang giảm thấp.
Khối lượng than nhập khẩu sẽ rất lớn,
cần có những chỉ đạo về chủ trương, về các biện pháp cụ thể để nhập khẩu
than, vận chuyển than và trộn than cho từng NMNĐ, tiến tới xác định ra một
loại than thiết kế mới (than trộn) ổn định cho mỗi NMNĐ, từ đó các NMNĐ có
thể xây dựng được các chế độ vận hành tối ưu theo loại than sử dụng mới.
PV: - Cảm ơn PGS.TS
Trương Duy Nghĩa đã chia sẻ với Đất Việt!
(Theo Đất Việt)
Nguyễn Hoàn thực hiện
|
Chủ Nhật, 1 tháng 1, 2017
Đăng ký:
Đăng Nhận xét (Atom)
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét