FDI Trung Quốc và chiến lược 'ép mua trọn gói'
Cập nhật lúc 08:34
(Tài chính) - Trung Quốc
sử dụng các doanh nghiệp nhà nước (DNNN) để tiến ra toàn cầu với
chiến lược "ép mua trọn gói".
PGS.TS Đinh Trọng Thịnh, Trưởng bộ môn Quản trị Tài chính Quốc tế,
khoa Tài chính Quốc tế (Học viện Tài chính) trao đổi về chiến lược FDI của
Trung Quốc.
PV: - Tại
diễn đàn "Việt Nam 30 năm đổi mới và xa hơn" tổ chức tại Singapore
vào tháng 4/2016, một nhóm tác giả có đưa ra nghiên cứu trong đó
cảnh báo Trung Quốc sử dụng các DNNN để tiến ra toàn cầu với chiến lược
"ép mua trọn gói" (để nhận được FDI, nước chủ nhà bị ép phải nhận nhà đầu tư, nhà thầu xây dựng là người Trung Quốc; hoặc phải trả nợ vay bằng các nguồn nguyên liệu thô; hay phải cho
phép họ phát triển các dự án bất động sản ở những vị trí đắc địa hoặc nhạy
cảm, thậm chí thanh toán bằng đồng nhân dân tệ trong giao dịch thương mại).
Ông bình luận gì về cảnh báo này? Việc sử dụng DNNN (chứ không phải
DNTN) sẽ hỗ trợ chiến lược tiến ra toàn cầu của Trung Quốc như thế nào
và nó để lại hệ lụy gì cho quốc gia nhận FDI Trung Quốc? Đối với Việt Nam,
cách thức này thể hiện như thế nào trong các dự án FDI Trung Quốc?
PGS.TS Đinh Trọng Thịnh: - Chiến lược đầu tư trực tiếp ra nước ngoài của các quốc gia
trên thế giới đều nhằm đến khai thác tài nguyên thiên nhiên, lao động giá rẻ
và những ưu đãi của nước chủ nhà đối với các nhà đầu tư nước ngoài, trong đó
có ưu tiên mang tính chất hành chính, ưu tiên kinh tế, thậm chí cả những thỏa
thuận mang tính chính trị.
Trung Quốc sở hữu lượng tích lũy ngoại tệ khổng lồ và
là nhà đầu tư lớn trên thế giới nhưng kinh tế nước này đang
chuyển đổi từ tập trung bao cấp sang kinh tế thị trường nên
các doanh nghiệp lớn, vốn nhiều, muốn đầu tư ra nước ngoài chủ yếu
là DNNN.
Mong muốn của các DNNN Trung Quốc luôn đi kèm với chiến lược của
chính phủ, do đó chính phủ Trung Quốc có chính sách ưu tiên, khuyến
khích DNNN, tạo mọi điều kiện để họ đầu tư ra nước ngoài.
Điểm khác biệt của Trung Quốc so với nước khác, đó là họ có khả năng
tập trung nguồn lực, đặc biệt là tài chính cho một mục
tiêu nhất định rất tốt. Nếu cảm thấy khu vực, quốc gia nào đó có thể
khai thác được, kiếm được nhiều lợi ích, Trung Quốc sẽ đầu tư mạnh mẽ.
Trong đòi hỏi của các nhà đầu tư, thông thường và phổ biến nhất
là đòi hỏi kinh tế (ưu tiên, ưu đãi về thuế, điều kiện tiếp cận thị trường,
mua bán nguyên vật liệu giá rẻ, thuê lao động giá rẻ ở quốc gia
đó...). Trung Quốc đi sau nhưngcó thế mạnh trong nhiều vấn đề, đặc biệt
là đàm phán, nắm bắt được tâm lý của đối tác, do đó, không chỉ trong FDI, mà
trong ODA, hầu hết các dự án Trung Quốc cấp vốn đều đòi hỏi đấu thầu
và doanh nghiệp Trung Quốc thường thắng thầu. Ở Việt Nam, dự án
đường sắt trên cao hay các dự án xây dựng cơ sở hạ tầng
là một ví dụ.
Sau khi thắng thầu, Trung Quốc đưa lao động của
mình sang. Những lao động này không chỉ sang làm việc mà
còn thâm nhập vào các giai tầng xã hội của nước chủ nhà, trở thành mầm mống
tạo ra những vấn đề phức tạp về an ninh chính trị, xã hội. Trung Quốc rất
giỏi việc này và nhiều quốc gia đã và đang mắc phải: ở các dự án đầu tư của
Trung Quốc thường đi kèm các China town (phố Tàu). Đây là một điểm nằm trong
chính sách của Trung Quốc để tăng thêm ngoại kiều, sức mạnh mềm của
Trung Quốc, là cách giải quyết việc làm cho lao động và có thể trở thành
"lực lượng thứ năm" trong sức mạnh Trung Quốc.
Ở Việt Nam, các dự án liên quan đến đầu tư Trung Quốc cũng trở
thành vấn đề lớn trong quá trình phát triển kinh tế, ổn định xã hội của
Việt Nam nên chúng ta cần cảnh giác.
Có thể nói, FDI Trung Quốc thường mang tính chất "trọn gói":
đi kèm với việc đưa vốn, công nghệ, máy móc vào là đưa người vào. Đáng
lưu ý, công nghệ của Trung Quốc thường không cao, học mót, lỗi thời nên
khi thu hút các quốc gia rất thận trọng với hệ quả của những công nghệ
đó, đặc biệt là vấn đề ô nhiễm môi trường, việc khắc phục rất tốn kém và
lâu dài.
Một đặc điểm khác liên quan đến FDI Trung Quốc: vốn thực
hiện/vốn đầu tư thường không cao và bị chậm trễ nhằm đạt được các lợi
ích về kinh tế, chính trị, xã hội.
Chính vì thế, hệ quả đối với các nước nhận FDI Trung
Quốc là: Khi công nghệ, thiết lạc hậu thì các nước chủ nhà phải đối mặt
với tình trạng xả thải ra môi trường, ô nhiễm khói bụi, tiếng ồn... và
chúng rất khó khắc phục.
Các nhà đầu tư Trung Quốc khi đầu tư ra nước ngoài, đặc biệt là vào
lĩnh vực khai thác, không chỉ làm xáo trộn mà còn hủy hoại môi trường
trong khi hiệu quả rất thấp. Cái lợi Trung Quốc đạt được là tài nguyên khoáng
sản phục vụ phát triển kinh tế; các vấn đề liên quan đến lợi nhuận và các mặt
chính trị, xã hội nhưng các nước chủ nhà không được lợi bao nhiêu. Đồng lương
của người lao động nhỏ bé, còm cõi; nếu kéo dài thời gian đầu tư thì nó gây
thiệt hại cho quốc gia nhận đầu tư, một số nguồn lực của nước chủ nhà bị găm
chết trong dự án và sau đó là các vấn đề chính trị, xã hội.
Do đó, nếu không cẩn trọng, Trung Quốc sẽ chỉ đầu tư theo mong muốn
của họ và vì lợi nhuận trước mắt mà không để ý đến các vấn đề khác. Nó sẽ ảnh
hưởng lâu dài đến quy hoạch phát triển toàn diện nền kinh tế cũng như an
ninh, chính trị, xã hội nước chủ nhà nếu Trung Quóc có những mục
đích đằng sau.
PV: - Nghiên cứu nói trên cũng chỉ ra rằng, các công ty đa quốc gia hoạt
động trong các lĩnh vực gây ô nhiễm môi trường nghiêm trọng ở Trung
Quốc đang tìm cách chuyển nguồn lực sang các quốc gia đang phát triển,
nơi có rất ít những chuẩn mực thỏa đáng về môi trường, cơ sở hạ tầng yếu kém,
tỷ lệ tham nhũng cao và những yếu kém trong thể chế quản trị quốc gia.
Trong khi đó, Nghiên cứu đánh giá về tình hình tuân thủ chính sách
pháp luật bảo vệ môi trường do Trường đại học Kinh tế Quốc dân thực hiện năm
2015 vừa công bố mới đây cho thấy: có 60% tổng số DN FDI xả thải vượt quy
chuẩn. Còn Viện Nghiên cứu Quản lý kinh tế Trung ương (CIEM) cũng cảnh báo:
Ngày càng nhiều dấu hiệu FDI trong lĩnh vực gây ô nhiễm môi trường đầu tư vào
Việt Nam.
Những nhận định và con số trên cho thấy điều gì, thưa ông? Đành rằng
FDI đóng vai trò rất quan trọng trong nền kinh tế Việt Nam nhưng liệu có phải
vì thế mà chúng ta khó nói không với các doanh nghiệp loại này và thiếu đi sự
giám sát cần có hay còn vì lý do nào khác?
PGS.TS Đinh Trọng Thịnh: - Việc chuyển công nghệ lạc hậu, ô nhiễm môi trường sang các nước đang
và chậm phát triển không phải chỉ riêng Trung Quốc mới làm mà các nước có đầu
tư FDI đều làm việc này. Một phần máy móc thiết bị của họ đang sẵn có nên họ
phải tận dụng. Ngoài ra yêu cầu về môi trường ở các quốc gia phát triển
ngày càng ngặt nghèo, nếu đầu tư vào các doanh nghiệp sẽ tốn kém rất nhiều.
Đây là lý do khiến các doanh nghiệp tìm mọi cách chuyển dây
chuyền thiết bị công nghệ cũ, lạc hậu sang các quốc gia đang và chậm phát
triển có quy định về an toàn môi trường, xả thải thấp hoặc chưa có. Các doanh
nghiệp vẫn đảm bảo sản xuất, tạo ra được lợi nhuận, dây chuyền vẫn phát
huy hết công dụng của mình trong khi không phải lo lắng mặt môi trường.
Điều này xuất phát trước hết từ sự yếu kém và sơ hở,
nhận thức không đầy đủ của các quốc gia đang và chậm phát triển. Chẳng hạn,
Việt Nam bây giờ hoàn toàn có điều kiện để tìm và chấp nhận những dây chuyền
công nghệ đạt tiêu chuẩn quốc tế về an toàn môi trường. Vấn đề là các cơ quan
chức năng Việt Nam có kiên quyết và đủ điều kiện để thẩm định các dự án, từ
đó yêu cầu các chủ đầu tư phải thực hiện đúng yêu cầu về xả thải
không.
Trước đây, Việt Nam chủ yếu quan tâm đến việc làm thế nào để thu hút
đầu tư, thậm chí các địa phương còn tranh nhau thu hút và hạ thấp các tiêu
chuẩn về an toàn môi trường, tiền thuê đất đai và các quy định khác liên quan
đến đầu tư, thậm chí vượt cả quy định được Chính phủ cho phép.
Ví dụ, Chính phủ không cho phép đầu tư 50-70 năm nhưng nhiều địa
phương vẫn cấp phép nhà đầu tư nước ngoài đầu tư cả thời gian dài như vậy. Rõ
ràng các địa phương cố tình vi phạm pháp luật để thu hút vốn FDI mà không
tính đến hiệu quả lâu dài.
Hệ quả, việc đảm bảo an toàn môi trường và các yêu cầu về kỹ thuật,
chất lượng của một dự án FDI chưa đúng với mong muốn của các nhà quản lý.
Các nhà quản trị Việt Nam hiện nay đã nhìn ra vấn đề đó và cũng mong
muốn xem xét, lựa chọn các dự án tuy nhiên việc làm nghiêm túc, đạt được hiệu
quả hay không lại là vấn đề khác, nó phụ thuộc vào cán bộ, doanh
nghiệp, những người làm việc ở bộ phận thẩm định thu hút FDI của chính quyền
địa phương và doanh nghiệp.
Trình độ của lực lượng cán bộ này thực tế còn yếu và thiếu nhiều
mặt, trong đó có cả những vấn đề về công nghệ, kỹ thuật, yếu kém về
đạo đức nghề nghiệp, tác phong làm việc... Nhiều khi do chủ quan,
lợi ích riêng hay lợi ích nhóm mà họ bỏ qua rất nhiều thứ chỉ với mục đích
thu hút FDI, và nó gây hậu quả cực kỳ tốn kém và lâu dài cho nền kinh tế các
địa phương nói riêng và kinh tế Việt Nam nói chung trong tương lai. Đây là
điều rất đáng lo ngại và cần phải cảnh báo để kịp thời có sự kiên quyết trong
thẩm định, chấp nhận các công nghệ kỹ thuật của FDI vào Việt Nam.
Với các dự án FDI trước đây đã chấp nhận giờ cũng có những khó khăn
nhất định trong việc siết chặt họ để đảm bảo an toàn môi trường. Khi họ
đầu tư vào Việt Nam không đặt ra các vấn đề đó trong hợp đồng. Việc
cần làm bây giờ là làm thế nào để đàm phán bổ sung cũng như yêu cầu các chủ
đầu tư phải có trách nhiệm đối với việc xử lý chất thải, đảm bảo an toàn vệ
sinh môi trường, từ đó đảm bảo chất lượng sống cho người dân xung quanh dự án.
Để làm được điểu này hỏi đòi hỏi sự kiên quyết và khôn khéo trong việc
đưa ra chính sách, đàm phán với chủ đầu tư và buộc họ chấp hành để xử lý
chất thải theo đúng chuẩn mực của Việt Nam và các quốc gia phát triển
trên thế giới, nếu không sau này, lợi nhuận và tiền thuế đóng góp của
các doanh nghiệp FDI không thể nào đủ để xử lý tác hại về môi trường mà
các doanh nghiệp đó gây ra.
PV: -
Nhóm nghiên cứu trong diễn đàn tổ chức hồi tháng 4/2016 tại
Singapore đề xuất cần có sự “giám sát đặc biệt” FDI Trung Quốc hơn so
với các các khu vực FDI từ các nước khác. Điều này có thực sự cần thiết
không thưa ông, và nếu như phải làm thế thì Việt Nam sẽ "giám sát đặc
biệt" thế nào?
PGS.TS Đinh Trọng Thịnh: - Không nên và không được phép đặt vấn đề "giám sát đặc
biệt" đối với FDI của nước này hay nước khác, vì theo nguyên tắc đối xử
tối huệ quốc cũng như theo nguyên tắc đối xử công bằng giữa các chủ thể đầu
tư, việc đó là vi phạm. Vấn đề quan trọng nhất là phải giám sát rộng rãi, đầy
đủ với tất cả các đối tác tham gia đầu tư vào Việt Nam.
Có rất nhiều vấn đề cần giám sát, ví dụ giám sát về mặt công nghệ, kỹ
thuật của dự án; hiệu quả đầu tư của dự án; mục đích sử dụng đất... Việc
chúng ta chấp thuận cho họ đăng ký đầu tư phải được thực hiện thận trọng, tỷ
mỉ đối với tất cả các chủ đầu tư ở tất cả các quốc gia, không phải chỉ riêng
chủ thể Trung Quốc. Những ai có dự án không đúng với quy hoạch, có công nghệ
thấp, suất đầu tư lớn nhưng chất lượng, hiệu quả thấp thì kiên
quyết không chấp nhận đầu tư.
Như vậy, Việt Nam vừa đảm bảo dự án FDI của tất cả các đối tác phải
phát huy được hiệu quả, đóng góp cho kinh tế Việt Nam phát triển
toàn diện, vững chắc, chứ không chỉ mang lại lợi ích cho nhà đầu tư. Điều
đó công bằng với tất cả mọi người và loại trừ được những chủ thể nào, kể
cả doanh nghiệp Mỹ, có dự án nhưng công nghệ thấp, bảo vệ
môi trường kém.
(Theo
Đất Việt) Thành Luân
|
Thứ Tư, 8 tháng 6, 2016
Đăng ký:
Đăng Nhận xét (Atom)
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét