Tranh chấp nổi lên trên vịnh Thái
Lan và vấn đề đường Brévié
Cập nhật lúc 13:36
Campuchia cắt
xén nội dung bức thư của Toàn quyền Đông Dương Brévié làm phức tạp thêm tranh
chấp.
Tiếp theo bài "Tại sao Hun Sen
lại nói "không thể đòi" Phú Quốc, Nam Bộ?", Báo Điện tử Giáo dục Việt Nam trân trọng giới thiệu bài phân
tích của Tiến sĩ Trần Công Trục, nguyên Trưởng ban Biên giới Chính phủ về vấn
đề tranh chấp trên vịnh Thái Lan và vấn đề đường Brévié.
Lợi ích kinh tế làm nảy sinh tranh chấp
Tranh chấp chủ quyền các đảo và biên giới trên vịnh Thái Lan giữa
Campuchia và Việt Nam chỉ bắt đầu vào năm 1931, khi Khâm sứ Pháp ở Campuchia
nhận được một đơn xin đặc nhượng một miếng đất trên đảo Koh Tang. Ngoài ra
ông Fournier, Tỉnh trưởng Hà Tiên trong vòng không đầy một tháng đã nhận được
14 bản khai về chu vi các mỏ khoáng sản liên quan đến các đảo trong vịnh.
Các mỏ này có những
vỉa rất giàu quặng phốt phát, quặng sắt khiến nhiều nhà thăm đò lưu tâm. Lấy
lý do các đảo gần bờ biển Campuchia, Khâm sứ Campuchia kiến nghị Thống đốc
Nam Kỳ giao các đảo đó cho chính quyền Campuchia vì “vị trí địa lý của các đảo này gắn bó chúng một cách tự nhiên
vào Campuchia là nơi việc giám sát có thể tiến hành tốt hơn do gần nhà đương
cục Campuchia".
Theo yêu cầu của Thống
đốc Nam Kỳ, Khâm sứ Campuchia bằng thư đã trả lời rằng: "Mặc dầu đã tiến hành tìm kiếm tỉ mỉ, vẫn không thể thu
thập được các yếu tố nghiêm chỉnh cho phép xác định một cách tuyệt đối các
quyền tương ứng của Nam Kỳ và Campuchia đối với các đảo trong vịnh Xiêm".
Về việc này, ông Khâm sứ Campuchia đưa ra một sơ đồ vịnh Thái
Lan, trong đó có một ranh giới giả định được Phòng Địa bạ Campuchia trình bày
mà theo ông ta cho rằng có thể thích hợp vì đường ranh giới đó có tính đến vị
trí địa lý, các ảnh hưởng tương ứng của Nam Kỳ và của Campuchia và các sắc
tộc của vài ngôi làng có các ngư dân định cư tại đó.
Đường phân chia đó chạy gần như song song với vĩ tuyến 10°30’ ở
phía Bắc đảo Phú Quốc, có thể cho Campuchia vài hòn đảo gần bờ biển của nước
này; đó là các đảo Phú Dự, đảo Tiên Mối và đảo Dừa.
Tuy nhiên, phía Campuchia lúc này đã chỉ đưa ra yêu sách đối với
nhóm các đảo gần Réam mà không có yêu sách gì về đảo Phú Quốc lẫn nhóm
đảo Hải Tặc, hay các đảo ở ngoài biển khơi. Thống đốc Nam Kỳ không chấp nhận
kiến nghị nói trên và vấn đề bị treo lại cho đến năm 1936.
Khác với cuộc tranh cãi năm 1913, nguồn gốc cuộc tranh chấp trong
thời kỳ 1936-1937 do các lý do về thuế khoá tạo ra. Chính quyền bảo hộ
Campuchia lấy lý do thu thuế các ngư dân trong vùng nêu ra việc cần thiết
phải giải quyết dứt điểm vấn đề quyền sở hữu về các đảo đó.
Thực vậy, ngư dân Campuchia thường qua lại các đảo và các mỏm đá
thuộc chủ quyền của Nam Kỳ để tiếp tế nước ngọt và để ẩn náu khi thời tiết
xấu. Cho đến năm 1935, ngư dân Campuchia vẫn đóng một phần thuế cho Campuchia.
Tuy nhiên, do việc Nam Kỳ đặt các trạm thuế quan trên một số đảo
và mức thuế lợi hơn nhiều so với tiền thuế do nhà đương cục Campuchia thu,
nên dần dần họ từ chối không nộp thuế cho tỉnh Kampot, và họ muốn nộp thuế
cho Nam Kỳ. Tất nhiên, sự thay đổi đó làm thiệt hại cho ngân sách địa phương
Kampot.
Khâm sứ Campuchia
liền đề nghị với Thống đốc Nam Kỳ một tạm ước: "Vì lý do quy chế đặc biệt của các lãnh thổ đó, là những
lãnh thổ mặc dầu nằm trong vùng biển gần với Campuchia, nhưng về pháp luật
lại thuộc chủ quyền của Nam Kỳ, đối với tôi sẽ có ích nếu chấp nhận đối với
vấn đề thu thuế các vùng đánh cá một tạm ước (modus vivendi) tính đến tình
hình thực tế hơn là tình hình pháp luật", Thư của Khâm sứ Campuchia gửi Toàn quyền Đông Dương viết.
Để giải quyết dứt điểm vấn đề thuế khoá, Tỉnh trưởng Hà Tiên đề
ra việc lấy tiêu chuẩn là nơi cư trú hợp pháp của thuộc dân. Người địa phương
ghi tên và cư trú ở Nam Kỳ, đánh cá ở các vùng ngay gần các đảo của Nam Kỳ sẽ
chịu chế độ thuế áp dụng tại thuộc địa này. Trái lại, quy định đang thi hành
ở Campuchia sẽ áp dụng đối với những người thuộc quốc tịch Campuchia và đóng
thuế thân ở Campuchia.
Tuy nhiên chính quyền
bảo hộ Campuchia từ chối đề nghị hợp lý đó lấy lý do là nơi cư trú hợp pháp
của ngư dân trước đây khó xác định chính xác, vì ngư dân là nhóm cư dân sống
bồng bềnh trên mặt nước, những người "chỉ có thể tìm đến chỗ
họ bằng cách dùng ca nô đi đến những nơi họ đánh cá, và họ trước hết luôn tìm
cách lẩn tránh các nhân viên thu thuế”.
Khâm sứ Campuchia gợi ý một giải pháp khác ấn định một ranh giới
gần như song song với bờ biển, cách bờ biển 5 km. Phía trong đường phân định
này, các vùng đánh cá sẽ được đặt dưới quy định của Campuchia, phía ngoài
đường phân định chúng sẽ chịu các khoản thuế áp dụng ở Nam Kỳ.
Cần lưu ý là nếu kiến nghị này được chấp nhận, các đảo Phú Dự,
Tiên Mới và đảo Dừa sẽ nằm trong lãnh hải của Campuchia và "Campuchia,
nước bảo hộ, sẽ được kiểm soát một phần lãnh thổ Nam Kỳ, xứ có chủ quyền đầy
đủ". Tất nhiên nhà cầm quyền Nam Kỳ không muốn như vậy.
Nhưng vì cho rằng giải pháp này sẽ gây ra những trở ngại đáng kể,
Khâm sứ Campuchia kết luận là nên giữ nguyên trạng và đề nghị Thống đốc Nam
Kỳ đồng ý. Do đó, nhà cầm quyền Campuchia có thể tiếp tục như trước đây thu
thuế của một số ngư dân Campuchia, sống trên các đảo của Nam Kỳ gần bán đảo
Réam và bờ biển Campuchia.
Bằng bức thư N°13124 ngày 8-12-1936, Thống đốc Nam Kỳ cho biết là
ông đồng ý với quan điểm của Khâm sứ Campuchia về việc nên duy trì nguyên
trạng, với điều kiện là chính quyền bảo hộ của Campuchia phải:
1. Nhân danh nước Bảo hộ, đồng ý là các đảo
có liên quan được nêu tên cụ thể, là thuộc chủ quyền
2. Quyết định các khoản thuế đang thu hiện
nay không vì lý do gì sẽ có thể mở rộng sang các đảo khác;
3. Quyết định rằng khoản bồi hoàn nguyên tắc
100$ mỗi năm sẽ được tỉnh Kampot trả cho tỉnh Hà Tiên.
Toàn quyền Đông Dương Brévié vạch ranh
giới kiểm soát hành chính trên vịnh Thái Lan
Sau đó, chính phủ Bảo hộ Campuchia cho rằng phải đưa tranh chấp
này lên người đứng đầu chính quyền thuộc địa Pháp ở toàn cõi Đông Dương để
tranh thủ, lợi dụng thời điểm bổ nhiệm Toàn quyền Đông Dương mới là Brévié mà
tên tuổi gắn liền với lịch sử các quan hệ trên biển giữa Campuchia và Việt
Nam. Như vậy, Khâm sứ Pháp ở Campuchia đã đặt vấn đề chuyển giao một số đảo
từ trước đến năm 1937 thuộc Nam Kỳ sang cho Campuchia.
Theo sắc lệnh của
Tổng thống Pháp ngày 20-9-1915: "Mọi sự chuyển dịch lãnh
thổ giữa các xứ trong Đông Dương thuộc Pháp được thực hiện bằng một nghị định
của Toàn quyền Đông Dương, được Hội đồng Chính phủ Đông Dương thông qua, sau
khi có ý kiến của Hội đồng Bảo hộ, Hội đồng Thuộc địa. Các Nghị định đó chỉ
có hiệu lực khi được các Bộ trưởng Thuộc địa chuẩn y".
Chấp hành quy định đó, Toàn quyền Đông Dương Brévié đã gửi cho
Khâm sứ Pháp ở Campuchia và Thống đốc Nam Kỳ bản dự thảo nghị định vạch một
đường xuất phát từ biên giới đất liền giữa Campuchia và Nam Kỳ, chạy ra biển
vòng qua Bắc đảo Phú Quốc cách các điểm nhô ra nhất của bờ Bắc đảo Phú Quốc
3km, coi đó là đường biên giới giữa hai bên.
Các đảo phía Bắc đường này được sát nhập vào Campuchia, các đảo
phía Nam đường này tiếp tục thuộc Nam Kỳ. Hội đồng bảo hộ Campuchia đã đồng ý
với dự thảo, nhưng Hội đồng Thuộc địa Nam Kỳ trong phiên họp ngày 26-1-1938
đã không đồng ý với dự thảo và đề nghị: Xét về cả ba mặt lịch sử, chính trị
và dân tộc “các đảo đó cần được tiếp tục thuộc Nam Kỳ".
Trước tình hình đó, Toàn quyền Đông Dương không ra Nghị định về chuyển
dịch lãnh thổ giữa hai xứ mà dùng một hình thức thấp hơn hẳn là gửi một bức
thư ngày 31-1-1939 cho Thống đốc Nam Kỳ vạch một đường hợp với kinh tuyến Bắc
tạo thành một góc 140°, đường đó vòng qua phía Bắc đảo Phú Quốc cách các điểm
nhô ra nhất của bờ phía Bắc đảo Phú Quốc 3km. Trong thư không nói rõ đường đó
chấm dứt ở đâu.
Tất cả các đảo ở phía Bắc con đường này từ nay sẽ do Campuchia
quản lý; tất cả các đảo phía Nam con đường này, kể cả toàn bộ đảo Phú Quốc sẽ
tiếp tục do Nam Kỳ quản lý. Trong thư này Toàn quyền Đông Dương dùng hai từ
khác nhau: đối với Campuchia là “từ nay", còn đối với Nam Kỳ là
"tiếp tục".
Bức thư nói rõ: Đương nhiên là ở đây chỉ đề cập đến vấn đề hành
chính và cảnh sát, còn vấn đề quy thuộc lãnh thổ của các đảo này hoàn toàn
được bảo lưu. Bức thư này được đồng gửi cho Khâm sứ Pháp ở Campuchia. Ông này
cho đăng bức thư trong Công báo Campuchia trong mục Thông tư, nên về sau mới
có người lầm lẫn gọi là "Thông tư Brévié".
Campuchia cắt xén nội dung bức thư của Toàn
quyền Đông Dương Brévié làm phức tạp thêm tranh chấp
Đáng lưu ý là khi đăng bức thư này, Khâm sứ Campuchia đã cắt bỏ
một đoạn nội dung của bức thư khẳng định việc hoàn toàn bảo lưu vấn đề quy
thuộc lãnh thổ. Thống đốc Nam Kỳ đã không cho đăng bức thư của Toàn quyền
Đông Dương Brévié trong Công báo.
Vì bức thư không được đăng trong Công báo Đông Dương và Công báo
Nam Kỳ, bản được đăng ở Công báo Campuchia lại không theo đúng nguyên bản nên
cho đến nay cả ta và Campuchia đều chưa tìm thấy sơ đồ của đường Brévié đính
kèm theo bức thư của Toàn quyền Đông Dương.
Cũng vì vậy hiện nay có nhiều cách thể hiện về đường Brévié. Ví
dụ: Trong luận án tiến sỹ của Sarin Chhak, Bộ trưởng Ngoại giao Campuchia
thời Sihanouk, đường Brévié được thể hiện không phải là một đường liên tục mà
là một đường đứt đoạn với 4 đoạn cách nhau khá xa.
Bộ Tư lệnh Hải quân của Việt Nam Cộng hòa khi công bố đường
ranh giới tuần tiễu trên biển đã thể hiện đường Brévié chấm dứt ngay ở Đông
Bắc Phú Quốc. Tiến sĩ Mark J. Valencia thuộc trung tâm Đông - Tây của Hoa Kỳ
trong một cuốn sách xuất bản năm 1985 đã thể hiện đường Brévié theo các đoạn
thẳng, cách các điểm nhô ra nhất của đảo Phú Quốc 3km.
Đây cũng là cách mà Nicholas Prescott, giáo sư người
Trong thư viết đường Brévié vòng qua Bắc đảo Phú Quốc, cách điểm
nhô ra nhất của bờ Bắc đảo Phú Quốc 3km thì sơ đồ này đã thể hiện đường
Brévié vòng từ phía Bắc đảo rồi trở lại về phía Đông
Tóm lược lại tranh chấp chủ quyền các đảo
trong vịnh Thái Lan giữa Campuchia và Việt Nam
Lược lại những dấu mốc diễn biến chính của vấn đề biên giới trên
biển và chủ quyền đối với các đảo trên vịnh Thái Lan giữa Campuchia và Việt
Nam có thể thấy, tình trạng tranh chấp chủ quyền biển đảo giữa Việt Nam và
Campuchia trong lịch sử là rất phức tạp. Giai đoạn trước năm 1939, là giai
đoạn có nhiều tranh chấp phức tạp nhất về chủ quyền, các quyền và lợi ích
giữa hai nước đối với các đảo và vùng biển có liên quan.
Ngay cả khi thực dân Pháp sau khi đã thiết lập xong chính quyền
thuộc địa ở Nam Kỳ và chính quyền bảo hộ ở Campuchia cũng phải tìm cách xác
định về mặt giới hạn địa lý và quản lý hành chính giữa 2 bên bằng những Hiệp
ước, Nghị định, Quyết định.
Năm 1858, Pháp bắt đầu đánh chiếm Việt Nam, Việt Nam thua trận
phải ký Hiệp ước nhường cho Pháp 6 tỉnh Nam Kỳ, trong đó có Hà Tiên và các
đảo thuộc tỉnh này.
Trong một thời gian dài, từ thế kỷ XVIII (1715) đến tận đầu thế
kỷ XX (1913), vấn đề chủ quyền các đảo trong vịnh Thái Lan đã không hề được
nêu ra cho đến khi người Pháp đến, các đảo đó từ trước đã thuộc sở hữu của
vương quốc An Nam và chúng được chuyển giao cho nhà cầm quyền Pháp căn cứ vào
Hiệp ước giữa triều đình nhà Nguyễn của Việt Nam với nước Pháp ký ngày
15/3/1874.
Bằng các Nghị định ký ngày 25/5/1874 và 16/6/1875, Thực dân Pháp
đã đặt các đảo dưới quyền cai trị của Hà Tiên. Mãi đến năm 1913, khi đặt vấn
đề xung quanh việc xin đặc nhượng và thu thuế các ngư dân trong vùng
(1936-1937) vấn đề quy thuộc quyền quản lý các đảo mới được đặt ra.
Đến năm 1939, Toàn quyền Pháp tại Đông Dương vạch ra đường Brévié
phân chia khu vực quản lý hành chính và cảnh sát giữa 2 nước trên vịnh Thái
Lan. Như vậy có thể thấy rằng, từ thế kỷ XVIII đến năm 1939, toàn bộ các đảo
giữa Việt
Chỉ từ sau năm 1939 theo quyết định của Toàn quyền Pháp tại Đông
Dương, Campuchia mới được "phân công quản lý hành chính" các đảo
phía Bắc đường Brévié chứ không đặt vấn đề quy thuộc lãnh thổ, nói cách khác
là bảo lưu tình trạng quy thuộc lãnh thổ đã có trước đó.
(Theo Giáo dục
VN) Ts Trần Công Trục
|
Thứ Tư, 12 tháng 8, 2015
Đăng ký:
Đăng Nhận xét (Atom)


Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét