'Ta đang nợ dân, nợ tương lai và bạn
bè'
Cập nhật lúc 06:36
Khi nhìn lại 30 năm đổi mới, ông Mai Liêm
Trực cho rằng nhờ quyết định đổi mới này, chúng ta đã phát huy được một phần
các nguồn lực của đất nước. Cơ chế mới đã mở ra cơ hội cho người dân và sức
bật cho đất nước.
LTS: Không thể phủ
nhận, sự thành công của kinh tế thị trường áp dụng vào môi trường xã hội Việt
Nam trong gần 30 năm qua đang tạo ra một thôi thúc cải cách thể chế kinh tế
để chúng ta có thể vượt qua các nút thắt của phát triển. Bài học dám vượt qua
chính mình, dám bỏ lại đằng sau những tư duy giáo điều, cũ mòn để bước sang
con đường mới hồi năm 1986 vẫn còn nguyên giá trị.
Tiếp theo tuyến bài nhìn lại 30 năm đổi mới, Tuần Việt Nam
giới thiệu cuộc toạ đàm Nhìn từ áp lực cải cách thể chế, với sự tham gia của
ông Vũ Ngọc Hoàng, Phó Trưởng ban thường trực Ban Tuyên giáo Trung ương và
ông Mai Liêm Trực, Nguyên Thứ trưởng thường trực Bộ Bưu chính-Viễn thông.
Nhà báo Lan Anh: Thưa các vị, chúng ta đã sắp
đi qua 30 năm đổi mới, giờ nhìn lại các vị có những suy nghĩ như thế nào?
Chúng ta đã làm được gì và còn những gì chúng ta cần phải làm tiếp?
Ông Mai Liêm Trực: Hẳn là không ai có thể quên, mười năm
sau khi đất nước thống nhất, Việt Nam đã lâm vào khủng hoảng nghiêm trọng do
hậu quả của chiến tranh và do cơ chế kinh tế sai lầm.
Sau gần 3 thập kỷ chuyển đổi từ thể chế kinh tế tập trung
quan liêu bao cấp sang thể chế kinh tế thị trường, đất nước đã vượt qua được
khủng hoảng. Kinh tế phát triển và đạt mức thu nhập tương đối mặc dù mới chỉ
ở mức trung bình thấp.
Nhờ quyết định đổi mới này, chúng ta đã phát huy được một
phần các nguồn lực của đất nước. Cơ chế mới đã mở ra cơ hội cho người dân và
sức bật cho đất nước.
Nhờ quyết định đổi mới đó, chúng ta đã khai phóng được
nguồn lực xã hội, nguồn lực con người, tài nguyên, trí tuệ, nguồn lực ứng
dụng khoa học công nghệ và đã hội nhập được với kinh tế quốc tế.
Những nguồn lực này là những động lực rất quan trọng để
chúng ta vượt qua cơn đói khổ, cơm không đủ ăn, áo không đủ mặc để phát triển
kinh tế trong gần 3 thập kỷ vừa qua.
Từ chỗ rất lạc hậu, giờ chúng ta đã tạo dựng được các
ngành như nông nghiệp, sản xuất hàng tiêu dùng, cơ sở hạ tầng giao thông,
viễn thông … Trong đó có những lĩnh vực chúng ta đã bắt kịp, thậm chí không
thua kém các nước khác.
Ông Vũ Ngọc Hoàng: Nhìn lại 30 năm đổi mới một cách khách
quan sẽ thấy, so với chính mình trước ngày đổi mới, chúng ta đã làm được rất
nhiều việc. Chúng ta không chỉ biết mỗi việc đánh giặc, mà còn biết làm kinh
tế, dám đổi mới để tiến lên.
Cái thời chúng ta chưa đổi mới, tự trói buộc mình, bị cô
lập và cũng có phần do chúng ta tự cô lập mình, cái giá phải trả là đất nước
đói nghèo.
Nhiều người chưa thể quên nỗi ám ảnh trong đêm trước đổi
mới bởi thiếu thốn lương thực, thiếu thốn vật dụng, phải sống nhờ, sống dựa
vào viện trợ từ các nước trong phe xã hội chủ nghĩa. Thế rồi, những nguồn
viện trợ ấy không còn, tình thế “tồn tại hay sụp đổ” đã buộc chúng ta phải
vượt qua chính mình, vượt qua giáo điều, bảo thủ để “cởi trói” cho nền kinh
tế.
Chúng ta đã bắt đầu đổi mới trong một tình thế bắt buộc,
chứ chưa phải đã xuất phát từ một tư duy khoa học đầy đủ và sâu sắc từ đầu.
Nhưng dù sao như thế vẫn tốt. Thực tiễn luôn là ông thầy vĩ đại.
Quyết định sáng suốt chuyển đổi từ nền kinh tế tập trung quan
liêu bao cấp sang nền kinh tế thị trường đã mang lại sự thay đổi lớn lao cho
một đất nước.
Từ chỗ khủng hoảng trầm trọng về lý luận và chính sách
kinh tế, từ chỗ thiếu lương thực, từ chỗ chỉ xuất khẩu “tiêu điều xơ xác
mướp”, giờ chúng ta đã là một trong hai quốc gia xuất khẩu lương thực nhiều
nhất thế giới, có kim ngạch xuất khẩu hàng trăm tỷ USD/ mỗi năm.
Từ chỗ, không thể tự mình cân đối ngân sách mà phải sống
nhờ vào nguồn viện trợ của nước ngoài, đến nay, dù vấn đề ngân sách vẫn còn
là câu chuyện lớn nhưng về cơ bản chúng ta cũng đã tự cân đối được. Mình đã
tự sống được bằng sức lực của chính mình.
Giáo dục, y tế đã phát triển đáng kể, xóa đói giảm nghèo
đạt kết quả quan trọng, nhiều vấn đề xã hội được quan tâm hơn.
Từ chỗ bị bao vây cấm vận, giờ Việt Nam đã có quan hệ đối
tác và bạn hữu với 185 quốc gia và vùng lãnh thổ, trở thành thành viên của
các tổ chức kinh tế - thương mại quốc tế lớn nhất, đã tham gia thành viên
Liên Hiệp quốc và có lúc là ủy viên không thường trực của Hội đồng Bảo an
Liên Hiệp Quốc.
Tôi có thể tóm gọn thế này, nếu như 30 năm qua mình không
dám đổi mới thì không biết tình thế lúc đó sẽ đưa đất nước đi đến đâu, chắc
là tệ lắm, thậm chí có khi còn sụp đổ. Cho nên có thể khẳng định, cuộc đổi
mới hồi năm 1986 dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam có một ý nghĩa
rất lớn, quyết định vận mệnh đất nước. Chúng ta đã làm được rất nhiều việc so
với chính mình trước đây.
Trong những cái được có những cái không thể đo đếm nhưng
có ý nghĩa nền tảng. Ví dụ, nếu cứ đóng kín cửa, không đổi mới, mình sẽ giống
như gà công nghiệp chẳng biết gì về kinh tế thị trường, chẳng biết gì về thế
giới xung quanh. Nhưng giờ thì hãy nhìn xem, người Việt Nam từ dân chúng đến
lãnh đạo ngày càng hiểu biết nhiều hơn về kinh tế thị trường, hội nhập quốc
tế, quyền con người, về tự do, dân chủ…
Với nhận thức mới (so với ngày xưa), ta đã có một cộng
đồng Việt
Nhà báo Lan Anh:Còn
những gì chúng ta vẫn chưa làm được?
Ông Vũ Ngọc Hoàng: Có hai cách tiếp cận: So với chính mình
trước đây và so với thiên hạ. Mỗi cách đều có ý nghĩa quan trọng. Nhìn vào
tốc độ tăng trưởng quốc gia, lâu nay chúng ta chỉ so sánh với chính mình
trong quá khứ. Tuy nhiên, cũng cần phải so sánh với thiên hạ nữa để thấy rõ
những mặt mình chưa làm được. So sánh với thiên hạ thì mới thấy được ta đang
ở đâu, ta “cao hay lùn”, đang tiến lên như thế nào trên bản đồ kinh tế thế
giới.
Từ những cách so sánh này chúng ta sẽ thấy:
Mục tiêu đặt ra là dân giàu nước mạnh mặc dù có tiến bộ
lên, có khá lên so với chính ta 30 năm trước, nhưng nếu so với thiên hạ thì
rõ ràng chúng ta vẫn còn xa họ lắm, thậm chí còn nhiều mặt tụt hậu xa hơn so
với các nước đã thành công trong công nghiệp hóa.
Cũng trong khoảng thời gian 30 năm đó, có nhiều nước vượt
trước ta một quãng đường rất dài. Trong khi ta vẫn chỉ chuyển đổi một cách từ
từ thì nhiều nước đã có những bước nhảy ngoạn mục. Cùng một xuất phát điểm
tương đồng, giờ họ đã vươn lên là những quốc gia phát triển, còn ta vẫn loanh
quanh ở quốc gia thu nhập trung bình thấp.
Theo tính toán của các nhà kinh tế, nếu tiếp tục phát
triển với cái kiểu như thế này thì phải mất thêm nhiều chục năm nữa chúng ta
mới có thể vượt qua giai đoạn thu nhập trung bình. Mà trong thời gian đó, các
nước họ có đứng yên chờ ta đâu, họ sẽ vẫn tiến lên nhanh chóng theo đà phát
triển mà họ đã đạt được. Và họ tiếp tục bỏ xa ta với khoảng cách có thể dài
hơn nữa.
Rõ ràng, nếu so sánh với thế giới, nền kinh tế của ta mặc
dù đã chuyển đổi nhưng vẫn còn chứa đựng những yếu tố bất ổn, mà nguyên nhân
quan trọng hàng đầu là do chúng ta vẫn chưa nhìn rõ sự thật. Không ít người
và cơ quan còn nặng bệnh thành tích, kể cả thông tin chưa đủ minh bạch, chưa
nhìn thấu đáo được bản chất của tình hình và chưa thực sự khai phóng tư duy
quản trị quốc gia, vẫn còn cũ kỹ, lỗi thời.
Thứ
nhất, tôi (và nhiều người nữa) đã từng nói về năng suất lao động xã
hội và thu nhập bình quân đầu người của Việt
Tôi cũng đã có nói về việc nước ta đang rơi vào “bẫy thu
nhập trung bình”. Theo giáo sư Trần Văn Thọ (ở Nhật) thì còn là “bẫy thu nhập
trung bình thấp” nữa. Trong bối cảnh hiện nay, nếu vẫn với cung cách quản trị
quốc gia thế này thì cơ hội để thoát khỏi cái bẫy này là rất khó. Mà rơi vào
đó thì sẽ mất nhiều chục năm vùng vẫy mà không dễ ra được.
Nếu như phát triển theo “chiều rộng” là ưu điểm để vượt
qua cơn đói nghèo trước đây, thì giờ là lúc chúng ta cần phải làm một cuộc
đổi mới lần thứ hai quyết liệt và trí tuệ hơn lần trước mới có thể phát triển
theo “chiều sâu” để vượt qua “bẫy thu nhập trung bình”, mà trước nhất là “bẫy
thu nhập trung bình thấp” như cách phân kỳ của Trần Văn Thọ.
Muốn vượt qua cái “bẫy thu nhập trung bình” không còn con
đường nào khác là phải phát triển theo chiều sâu, mà trong đó, khoa học công
nghệ, nguồn nhân lực chất lượng cao và kỹ năng quản trị quốc gia với đầu óc
thoáng mở mà chặt chẽ đóng vai trò cực kỳ quan trọng.
Nước ta khoa học công nghệ đang lạc hậu từ hai đến ba thế
hệ so với trung bình của thế giới. Mà muốn bắt kịp thiên hạ thì mình phải
vượt hơn cái trung bình đó hai đến ba thế hệ. Có nghĩa mình phải vượt qua 5
thế hệ về khoa học công nghệ thì may ra mới tạo đột phá.
Thứ
hai, về xuất khẩu, sản phẩm công nghiệp thì hầu như chưa có gì đáng
kể; các sản phẩm xuất khẩu của ta vẫn chưa có chỗ đứng vững chắc trên các thị
trường lớn. Có lẽ sản phẩm của Việt
Tôi muốn nói điều đó để suy nghĩ về sự lựa chọn những hướng
đi sao cho thiết thực và hiệu quả, chứ chúng ta đã lựa chọn nhiều thứ quá
(mía đường, xi măng, sắt thép, cơ khí, ô tô, đóng tàu…) mà cuối cùng vẫn chưa
cái nào có thể gọi là thành công.
Thứ
ba, về ngân sách, nói là cân đối được nhưng hiện nay mình đang nợ
rất nhiều. Nợ của dân, nợ của tương lai và nợ của bạn bè. Ta đã mượn của con
cháu để tiêu dùng (có phải vậy không?!).
Thứ
tư, về văn hoá, về cơ bản những giá trị văn hóa mà mình đang sử
dụng hầu hết là những giá trị của quá khứ, được tạo dựng bởi cha ông. Giờ
nghiêm túc nhìn xem, sau 30 năm đổi mới, chúng ta đã có thêm những giá trị
văn hoá gì đáng kể? (ấy là chưa kể đạo đức xã hội có nhiều mặt suy đồi, tham
nhũng và “lợi ích nhóm” rất đáng lo ngại…)
Thứ
năm, về chính trị, cụ thể là việc kiểm soát quyền lực, trong Đại hội
XI đặt ra vấn đề là phải kiểm soát quyền lực. Đến nay về cơ bản ta vẫn chưa
làm được gì đáng kể, càng không được như mong muốn. Quyền lực để càng lâu mà
không có kiểm soát thì mặt trái của nó là càng tha hóa. Lòng tin của dân
chúng (và cả đảng viên) thì tiếp tục giảm sút đáng lo ngại.
Theo Tuần Việt
|
Thứ Tư, 5 tháng 8, 2015
Đăng ký:
Đăng Nhận xét (Atom)
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét