Trọng bệnh của nền
kinh tế Việt Nam: Phân bổ vốn đầu tư sai lệch
Cập nhật lúc 15:46
Việt Nam đang
đẩy mạnh tốc độ và quy mô vay mượn các nguồn vốn nước ngoài để đầu tư phát
triển, nhưng lại đang có xu hướng khiến cho tình trạng tham nhũng, lãng phí,
thất thoát và sử dụng kém hiệu quả trở nên nghiêm trọng và đáng báo động hơn
rất nhiều.
Nền kinh tế Việt Nam đang bước vào giai
đoạn cải cách, trong đó đặt trọng tâm vào việc chuyển đổi mô hình tăng trưởng
mới từ mô hình tăng trưởng cũ vốn có nhiều điểm yếu. Đây cũng là lúc đặt ra
câu hỏi: vì sao nền kinh tế Việt Nam tăng trưởng dưới tiềm năng trong nhiều
năm trở lại đây.
Thông tin đáng chú ý mới nhất là
kết quả nghiên cứu của Trung tâm nghiên cứu ngân hàng TMCP Đầu tư và phát
triển Việt Nam (BIDV) vừa công bố trong báo cáo thực trạng nợ công tại Việt
Nam giai đoạn 2011-2015 và đề xuất cho giai đoạn 2016-2020, cho thấy mức
độ hiệu quả sử dụng nguồn vốn đầu tư của kinh tế Việt Nam quá thấp. Theo số
liệu của Ngân hàng Thế giới (WB) thì hệ số sử dụng vốn (ICOR) của Việt Nam
giai đoạn 2001-2005 là 4,88; giai đoạn 2006-2010 lên đến 6,96; còn trong giai
đoạn 2011-2015 hệ số này đạt mức 6,92; trong khu vực châu Á thì hiệu quả
sử dụng vốn của Việt Nam chỉ hơn nước đứng bét bảng là Ấn Độ với chỉ số ICOR
lên đến 7,31.
Kết quả nghiên cứu của BIDV cùng số
liệu của WB đang chỉ ra một căn bệnh trầm kha nguy hiểm nhất của kinh tế Việt
Nam trong nhiều năm qua, đó là tình trạng vung tay quá trán trong đầu tư phát
triển, nguồn vốn (phần lớn là đi vay) được sử dụng tràn lan, lãng phí và kém
hiệu quả. Cụ thể, mức gia tăng nợ công của Việt Nam trong giai đoạn 2011-2015
thuộc diện cao nhất khu vực, với mức gia tăng trung bình khoảng 16,7% mỗi
năm. Điều này có nghĩa là Việt Nam đang đẩy mạnh tốc độ và quy mô vay
mượn các nguồn vốn nước ngoài để đầu tư phát triển, nhưng lại đang có xu
hướng khiến cho tình trạng tham nhũng, lãng phí, thất thoát và sử dụng kém
hiệu quả trở nên nghiêm trọng và đáng báo động hơn.
Tuy nhiên, đó vẫn chưa phải là căn bệnh
trầm kha duy nhất của nền kinh tế Việt Nam xét trên khía cạnh phân bổ và sử
dụng hiệu quả nguồn vốn phát triển. Một mặt, nền kinh tế Việt Nam rơi vào
tình trạng vay mượn quá nhiều để đầu tư nhưng kém hiệu quả và thất thoát;
nhưng mặt khác, lại có rất nhiều lĩnh vực trong nền kinh tế có tiềm năng rất
lớn nhưng rất ít được đầu tư. Du lịch là một ví dụ điển hình nhất. Được xem
là ngành công nghiệp không khói và là con gà đẻ trứng vàng đối với bất cứ một
nền kinh tế nào, nhưng ngành du lịch của Việt Nam lại đang có hình dạng
của một con gà còm cõi vì thiếu đầu tư.
Những số liệu thống kê mới nhất về tình
trạng của ngành du lịch Việt Nam đang khiến tất cả phải bàng hoàng. Cụ thể,
theo số liệu thống kê của Tổng cục Du lịch Việt Nam, đầu tư cho quảng bá du
lịch của Việt Nam đang ở mức rất khiêm tốn, chỉ đạt khoảng 2 triệu USD/năm.
Con số này chỉ bằng 2,9% đầu tư của Thái Lan, 2,5% của Singapore và 1,9%
của Malaysia. Theo thống kê, các nước trong khu vực như Thái Lan hay
Singapore và Malaysia trung bình mỗi năm chi hơn 100 triệu USD cho hoạt động
xúc tiến và quảng bá du lịch. Sự chênh lệch quá lớn này có lẽ là một trong
những nguyên nhân hàng đầu khiến lượng khách du lịch đến Việt Nam hàng năm
kém xa so với các nước trong khu vực.
Cụ thể, Việt Nam hiện chỉ đứng thứ 5
trong ASEAN về số lượt khách du lịch quốc tế với mức 7,94 triệu lượt vào năm
2015, mức này chỉ bằng 27% so với Thái Lan, 31% so với Malaysia và 52% so với
Singapore. Rõ ràng là một vấn đề quan trọng rút ra được qua những con số
thống kê này là tiềm năng du lịch của Việt Nam là rất lớn so với
các nước trong khu vực, nhưng chưa được khai thác hiệu quả do ít được
đầu tư. Vì chỉ với số tiền chi cho quảng bá chỉ bằng 2,9% so với Thái Lan và
1,9% so với Malaysia mà số khách du lịch quốc tế đến Việt Nam vẫn có thể bằng
27% và 31% so với hai quốc gia trên. Rõ ràng là nếu Việt Nam tăng cường đầu
tư cho hoạt động quảng bá du lịch nhiều hơn thì không nghi ngờ gì việc
lượng khách quốc tế đến Việt Nam sẽ tăng gấp nhiều lần hiện nay.
Điều đáng nói nhất trong câu chuyện này
là, trong khi số tiền chi cho quảng bá du lịch của đất nước chỉ đạt 2 triệu
USD/năm, thì những câu chuyện các dự án hàng ngàn tỉ đắp chiếu lại liên
tục xuất hiện trên các mặt báo với tần suất dày đặc. Chỉ một công trình 1.000
tỉ đồng thôi cũng đã gấp hai mươi lần khoản tiền còm cõi đang chi
cho hoạt động quảng bá du lịch mỗi năm. Chắc chắn là nếu số tiền đó được đầu
tư vào những lĩnh vực có tiềm năng rất lớn như du lịch thì hiệu quả kinh tế
sẽ rất cao, và lợi ích mà nền kinh tế nhận được sẽ lớn hơn rất nhiều so với
việc bị đắp chiếu tại các dự án kém hiệu quả khác.
Nói cách khác, trọng bệnh của nền kinh
tế Việt Nam không chỉ là đi vay quá nhiều nhưng hiệu quả sử
dụng vốn quá thấp, mà còn ở chỗ các lĩnh vực có tiềm năng rất lớn
lại rất ít nhận được vốn đầu tư trong khi các lĩnh vực có tiềm năng kém hơn
và nhiều rủi ro hơn lại nhận được quá nhiều. Xét về mức độ hiệu quả sử dụng
vốn đầu tư, chúng ta đang đứng gần bét châu Á và chỉ hơn được Ấn Độ; còn
về sự thiếu hợp lý trong phân bổ nguồn vốn vào các lĩnh vực trong nền kinh tế
thì có lẽ không nước nào ở châu Á có thể qua mặt được chúng ta.
Những bất cập và thiếu hợp lý này
có lẽ nằm ở nguyên nhân mô hình tăng trưởng trong nhiều năm qua của Việt Nam
có quá nhiều bất cập. Chúng ta quá tập trung cho các lĩnh vực công nghiệp hóa
một cách bất hợp lý mà bỏ quên yếu tố hiệu quả kinh tế của các dự án đầu tư.
Rất dễ dàng nhận ra hầu hết các công trình ngàn tỉ bị đắp chiếu trong
thời gian qua đều là các dự án nhà máy công nghiệp. Rõ ràng là tư duy phải
công nghiệp hóa bằng mọi giá của thời kỳ bao cấp vẫn còn đang có sức chi phối
rất lớn với mô hình tăng trưởng kinh tế của Việt Nam trong những năm qua, dù
chúng ta đã chuyển dần sang cơ chế kinh tế thị trường. Đã đến lúc cần phải
đặt hiệu quả kinh tế lên vị trí cao nhất, chỉ có như thế mới có thể tối đa
hóa nguồn lực vốn không lấy gì làm lớn của kinh tế đất nước.
Nhàn Đàm (bài viết có sử dụng một số thông tin
từ Cafebiz, The Saigon Times)
(Theo Một thế Giới)
|
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét