10:05
Hồ sơ
Trung Quốc tiến ra đại dương:
Mộng bành trướng và tiềm lực quân sự
SGTT.VN
- Tháng 10.1992, tại đại hội Đảng lần thứ 14, Tổng bí thư Giang Trạch Dân
nhấn mạnh “nhiệm vụ của quân đội Trung Quốc từ đây trở đi là bảo vệ thống
nhất đất nước, toàn vẹn lãnh thổ và quyền lợi trên biển”.
Đây
là lần đầu tiên một chủ tịch quân ủy Trung Quốc (TQ) nói về “quyền trên
biển”. Nếu như “toàn vẹn lãnh thổ” trong vùng không bị phá vỡ bởi ý muốn độc
lập của Đài Loan, thì mục tiêu chiến đấu để tranh biển của TQ sẽ là nhằm đến
các đối tượng đe dọa quyền lợi biển của TQ, tức Philippines, Việt Nam, sau đó
là Nhật, Ấn.
Các
hạm đội
TQ
còn đi xa hơn khi dự liệu Nhật và Ấn sẽ đưa hải quân vào Biển Đông để hỗ trợ
các quốc gia chống lại TQ nếu xảy ra sự cố ở Biển Đông nhằm giảm áp lực của
TQ ở Biển Nhật Bản và bảo vệ các khu vực mà Ấn đã khai thác cùng Malaysia và
Việt Nam ở Biển Đông.
Trong thời quan chiến tranh lạnh, Hạm đội Bắc Hải (NSF-
đóng tại Thanh Đảo) có nhiệm vụ ngăn chặn hạm đội Thái Bình Dương của Liên Xô
nam tiến, do vậy phải phối hợp chặt với lục quân.
Hạm đội Đông Hải (ESP-đóng tại Ninh Ba) chủ yếu tiếp trợ hậu
cần và huấn luyện. Sau khi mối nguy Xô Viết không còn nữa, đã có dấu hiệu TQ
đầu tư cho ba hạm đội này đồng đều nhau.
Khí
tài trọng yếu nhất là các khu trục hạm lớp Luhai 112 và 113 vẫn ở Hạm Đội Bắc
Hải. Nhưng đã có chỉ dấu của việc chuyển hướng xuống phía Nam.
Năm
2002, khu trục hạm lớn nhất Luhai 6000 tấn đã chính thức về biên chế Hạm đội
Nam Hải (SSF- đóng tại Trạm Giang).
Cũng
trong giai đoạn 2002, Hạm đội Bắc Hải vẫn là hạm đội trang bị tốt nhất. Ít
nhất ba trong số năm tàu ngầm hạt nhân lớp Ha và một SSBN (tàu ngầm hạt nhân
có tên lửa đạn đạo) nằm trong biên chế NSF.
Theo
bố trí thì Hạm đội Đông Hải và Hạm Đội Bắc Hải sẽ đảm trách chặn Nhật Bản
tiến về nam. Đồng thời hạm Đội Đông Hải chịu trách nhiệm tiếp vận cho Hạm Đội
Nam Hải hoạt động ở biển Đông và Ấn Độ Dương và Hạm Đội Đông Hải sẽ nhận
nhiệm vụ tấn công Đài Loan.
Đặc
biệt hải quân TQ đã thành lập một căn cứ tàu ngầm quy mô lớn tại đảo Hải Nam,
cho phép Hạm Đội Nam Hải triển khai nhanh hơn các khu vực phía Nam, trong đó
có Biển Đông.
TQ
có cổng chính hướng ra Thái Bình Dương và cổng sau lưng nằm trong Nội Á. Suốt
lịch sử, bạn và thù của TQ không đến từ cổng chính. Người Mông Cổ, Tartars,
Thổ và các bộ lạc đã đến và tấn công TQ từ cổng lục địa, không phải biển.
Sự
thịnh vượng và các mối phiền nhiễu đến từ cả hai cổng. Tuy nhiên, chỉ ở cổng
giáp biển mà TQ đã bừng tỉnh và cải cách, và cũng chính bởi sự bừng tỉnh này
đã khiến TQ tìm mọi cách để thống trị Biển Đông, qua Ấn Độ Dương bằng nhiều
cách.
Các
chiến lược chuỗi ngọc trai, chiến lược phong tỏa biển, phòng tuyến hai lớp
tranh giành biển và đảo với Nhật, Bắc Triều Tiên, Hàn Quốc, các nước Đông Nam
Á, cộng với đe dọa các đối tác khai thác biển của Việt Nam và phớt lờ luật
pháp quốc tế chính là những mảnh nhỏ của bức tranh tổng thể. Bức tranh của
một cường quốc mới nổi bị ám thị về quá khứ, lo âu về vị thế mới và được đốt
nóng bởi chủ nghĩa dân tộc cực đoan vốn thường xuất hiện sau thời gian dài
trong vị thế nhược tiểu.
Những bất cập kỹ thuật
Cho dù là một lực lượng hải quân mạnh nhất nhì châu Á với tầm
ảnh hưởng lớn ở Thái Bình Dương và Ấn Độ Dương, hải quân TQ vẫn đang đứng
trước những bất cập kỹ thuật mà giới hải dương học gần đây từng đề cập đến.
Chính
hải quân TQ nhận ra các thiếu sót về khí tài và những khó khăn để điều chỉnh
mặt thiếu sót này.
Tướng
Tào Cương Xuyên, chủ nhiệm Tổng cục Quân khí và sau này là bộ trưởng bộ quốc
phòng TQ đã từng than phiền rằng lương bổng thấp đã khiến quân đội nước này
khó giữ các nhà khoa học và nghiên cứu giỏi và ông này cũng cho rằng công
việc phát triển khí giới là một công việc không dễ dàng[1]
Công
tác bảo trì và cung ứng khó khăn vì có nhiều hạng mục nhập từ nước ngoài,
theo đó gieo ảnh hưởng về thiết kế đối với các tàu mới đóng. Do vậy huấn
luyện nhân sự để bảo trì, tiếp liệu và kể cả thử vận hành đều gặp các thách
thức không nhỏ. Những thiếu sót này làm giảm hiệu năng của hệ thống tàu chiến
và càng trầm trọng hơn khi TQ có thói quen xây dựng các lớp tàu nhỏ từng loạt
từ hai đến bốn chiếc.
Giới
hải quân TQ đang ra sức cải tiến tính phù hợp của hệ thống và mẫu số chung để
bảo trì thiết bị cũng như các hệ quả của mua sắm trong hạn chế ngân sách, xây
dựng tàu với thiết bị hỗn tạp và hạn chế bảo trì đại trà do lượng sản xuất
các lớp tàu quá ít.
Sự
cố tàu ngầm lớp Ming 361 làm tổn thất 70 thủy thủ nằm 2003[2] cũng được quy cho công tác bảo trì
chưa đạt chuẩn.
Khả
năng đối chọi trên không
Muốn
được xem là siêu cường biển hiện đại thì phải mạnh về không lực, cả máy bay
có và không người lái, cũng như về tên lửa hành trình và tên lửa đạn đạo.
Hải
quân TQ đã cố gắng nâng cấp bằng cách đưa vào hoạt động tàu Luyang II lớp
DDG. Hệ thống dạng Aegis của con tàu này là loạt đầu tiên của hải quân TQ có
thể cung cấp năng lực không đối không trên diện rộng tốt hơn cho họ.
Những
chiến hạm đời trước chỉ có khả năng tự vệ điểm. Hệ thống phòng thủ điểm
(point-defense) được thiết kế để tự vệ đối với chính các con tàu trang bị hệ
thống còn hệ thống phòng thủ diện (area-defense) sẽ có khả năng bảo vệ một
nhóm các con tàu.
Khác
biệt nằm ở chỗ hệ thống phòng thủ diện có tầm và khả năng phát hiện, tiến
đánh nhiều mục tiêu cùng lúc.
Các
tàu lớp Luda và Jianghu không có hệ thống đối không (surface to air); và bốn
con tàu lớp Sovremenny mua từ Nga có hệ thống SA-N-7 phòng thủ điểm.
Các
tàu lớp Luhu, Luhai, Jiangwei trang bị tên lửa Crotale của Pháp hay phiên bản
TQ, tức HQ-6/7 cũng là những hệ thống phòng thủ điểm.
Còn
các tàu lớp Luyang I và Luzhou rồi Luyang II dù có tên lửa AAW, nhưng cũng
thiếu khả năng phòng thủ diện rộng.
Khả
năng đánh tàu ngầm (ASW)cũng là một điểm yếu của hải quân TQ. Khả năng phát
hiện tàu ngầm, đặc biệt là từ phía tàu trên mặt nước là không đơn giản. hải
quân TQ chưa có khả năng tận dụng các kỹ thuật ASW có sẵn, đặc biệt trong
điều kiện phát hiện thụ động dù các kỹ thuật này đã có mặt 40 năm.
Ngoài
ra hải quân TQ cũng không có các nguồn lực chống tàu ngầm trên không
(airborne ASW), họ chỉ có vài chục máy bay theo nhiệm vụ này. Các thông tin
cho thấy hải quân TQ chưa triển khai hệ thống dò âm thanh tại vùng biển của
họ.
Trong
hai thập kỷ qua, TQ đã cố gắng cải tiến hạ tầng thông tin. Các cải tiến kỹ
thuật đã tạo động lực cho thương mại hóa khoa học và họ đã cố kết hợp những
tiến bộ này với thương mại, ngân hàng, vận tải và gia tăng sức vận hành của
các mạng thông tin hàng không, hàng hải, tàu lửa trên cơ sở điện toán. Công
nghiệp điện tử phục vụ chiến tranh của TQ dành ưu tiên cho radar trên tàu,
các thiết bị và hệ thống thám báo điện tử đi cùng tàu chiến. Công ty xuất
nhập khẩu điện tử và công ty xuất nhập khẩu cơ giới chính xác phải hỗ trợ đặc
biệt cho phát triển tên lửa cho hải quân TQ.
Kết
luận:
Tính
từ khi vẫn còn trao đổi khoa học kỹ thuật với Liên Xô và ứng dụng học thuyết
phòng thủ bờ biển (coastal defense) đến nay, TQ đã lập ra một hệ thống lý
luận liên quan đến hải dương, hải quân bao gồm kỹ thuật, tầm bắn, lý do kinh
tế, địa chính trị, tuyên truyền để ủng hộ cho việc khống chế biển và cả các
đại dương.
Trong
đó, TQ cũng chuẩn bị những công việc liên quan pháp luật và cử học giả bảo vệ
ý đồ của mình, dẫu rằng các lý lẽ về đường chữ U và quyền lịch sử là hoàn toàn
không phù hợp với UNCLOS. Không giấu việc muốn ngoi lên vị trí một siêu cường
bằng kinh tế, quân sự, địa chính trị và cả sức mạnh mềm, TQ đã tự cho phép
mình vẽ lên và thực hiện những vành đai trên biển, trên không và trên bộ sao
cho đạt được các mục đích họ đã đề ra.
Chủ
nghĩa dân tộc được đề cao, làm nhiên liệu thúc đẩy và làm có vẻ hợp lý cho
các hoạt động bất chấp luật pháp quốc tế nhìn từ trong nội bộ TQ.
Điều
này cực kỳ nguy hiểm vì TQ đang trượt trên một con đường khác với đa phần thế
giới, lại thiếu sự chấp nhận phản biện, nên cuộc phiêu lưu đó sẽ vẫn tiếp
diễn.
|
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét