Một cuốn sách có nhiều tư liệu mới về vua Quang Trung đánh Thăng Long
Cập nhật lúc 08:26
Một số nội dung đã viết, đã ghi nhận còn rất nhiều lỗ hổng khiến
đời sau không hoặc hiểu không hết về vị vua bách chiến bách thắng Quang Trung
Nguyễn Huệ.
Những điều này nằm trong cuốn Việt - Thanh chiến dịch của tiến sĩ Nguyễn Duy Chính vừa được Nhà xuất bản Văn Hóa Văn
Nghệ ấn hành.
Lâu nay, Phong trào Tây Sơn lịch sử
chúng ta đã viết khá nhiều. Đặc biệt là chiến thắng lẫy lừng của vua Quang
Trung đánh đuổi quân Thanh ra khỏi bờ cõi Việt Nam năm Kỷ Dậu 1789, một chiến
thắng đã khiến cho kẻ thù e sợ.
Nhiều điều chưa biết
Thế nhưng, những gì đã viết, đã ghi nhận
còn rất nhiều lỗ hổng khiến đời sau không hoặc hiểu không hết về vị vua bách
chiến bách thắng nầy.
Những câu hỏi như quân đội Tây Sơn gồm
những ai? Làm thế nào để Tây Sơn có một đội thủy quân mạnh? Các vị tướng của
Quang Trung như các Đô đốc Lộc, Thủ, Tuyết, Thái sư Bảo... vì sao không có
tiểu sử? Cách tiến quân thần tốc của Tây Sơn? Các phương tiện vận chuyển, vũ
khí sử dụng, lương thực mang theo của quân Tây Sơn... vẫn chưa có lời giải
thích hợp lý.
Và hầu hết những điều này được giải thích rõ hơn trong Việt - Thanh chiến dịch.
Việt - Thanh chiến dịch cho người đọc biết lực lượng của Tây Sơn là “đa tạp không thuần
nhất” bao gồm “binh sĩ các vùng Thuận Hóa và Quảng Nam ở Đàng Trong, trong đó
có một số đông người Thượng và người Hoa”.
Để bảo đảm đội binh nầy chiến đấu tốt và
tuân lịnh chỉ huy tuyệt đối, Tây Sơn đã “áp dụng kỷ luật thép”.
Trước khi lên ngôi hoàng đế, vua Quang
Trung đã công bố một sắc lịnh nói rõ rằng “nếu một sĩ quan hay binh lính nào
phạm tội gì, các quan văn võ sẽ họp lại để xử họ và nếu họ đáng bị xử tử họ
sẽ bị kết án tử hình”, đặc biệt là trường hợp “trốn bổn phận” sẽ bị “xử tử
tức thì”.
Quân Tây Sơn sử dụng màu đỏ tía trong áo
mặc và chỏm mũ. Quân đội gồm có bộ binh, tượng binh, thượng binh, thủy binh.
Bộ binh chủ yếu là “thân binh Thuận Quảng” trang bị tối tân, rất kỷ luật gồm
người Thuận Hóa, Quảng Nam, người Thượng và người Hoa.
Thượng binh hầu hết là người dân tộc
thiểu số Tây Nguyên, Lào, Campuchia. Tượng binh đội binh quan trọng nhứt của
Tây Sơn dùng để chở đại bác loại nhỏ, vũ khí, lương thực cũng do người
dân tộc thiểu số điều khiển. Thủy binh bao gồm các ngư dân nghèo sống ven
biển và hải khấu người Hoa.
“Đối với đám hải khấu lẻ tẻ vùng Quảng
Đông, Phúc Kiến, Chiết Giang và Giang Tô, Nguyễn Văn Huệ (Quang Trung) được
gọi là Đại Ca Việt Nam...”.
Đây là lực lượng đông đảo gồm hàng ngàn
chiến thuyền, hàng vạn chiến binh có sẵn và sẵn sàng tham gia chiến đấu khi
có lịnh.
Đủ loại vũ khí
Ngay khi mới khởi nghĩa, Tây Sơn đã sử
dụng thương nhân Hoa kiều là Tập Đình và Lý Tài chiêu mộ một số người Hoa tổ
chức thành Trung nghĩa quân và Hòa nghĩa quân.
Sử nhà Nguyễn chép “Lại lấy người thổ trước cao
lớn, cạo đầu dóc tóc, lẫn lộn với người Thanh. Lúc đánh thì cho uống rượu
say, cởi trần, đeo giấy vàng, giấy bạc vào cổ, để tỏ ý là tất chết; thường
làm quân tiến xung, quan quân không thể chống được...”.
Một nhân vật được đề cập là Trần Thiêm
Bảo. Nguyên Bảo làm nghề đánh cá ở Liêm Châu, Quảng Đông cùng vợ và hai con
trai. Năm 1780 thuyền bị bão trôi dạt xuống phương Nam nên ở luôn tại khu vực
gần Thăng Long.
Năm 1783, Bảo tham gia Tây Sơn và được
phong chức Tổng binh, sau có nhiều công trạng được phong làm Bảo Đức Hầu,
dưới tay có sáu chiến thuyền, chỉ huy một đạo quân trong đó có 200 người Việt.
Bảo còn chiêu tập được tất cả các nhóm
hoạt động trong vùng biển Đông và vịnh Bắc Việt xây dựng cho Nguyễn Huệ một
lực lượng thủy binh đáng kể.
Về vũ khí, Tây Sơn có đủ loại vũ khí từ
dao mác bình thường, trong đó có loại đao dài, lưỡi đao dài bằng cán đao (có
lẽ là một loại mác ngày nay vẫn còn được dân chúng vùng đồng bằng sông Cửu
Long sử dụng), súng, hỏa hổ, hỏa cẩu, hỏa long (các loại súng phun lửa), đại
bác, tiểu pháo và thuốc nổ.
Trong số nầy, hỏa hổ là loại vũ khí đặc
trưng của Tây Sơn. Nguyễn Huy Túc, trong một tờ biểu đã miêu tả hỏa hổ:
“Tháng sáu năm thứ 51 (Bính Ngọ 1786), Nguyễn Nhạc, Nguyễn Huệ
công thành, nghe nói có đến hơn 5 vạn quân, khí giới của chúng phần lớn là
giáo mác và hỏa đồng, còn có tên là hỏa hổ, có bầu lớn, dài chừng một thước,
khi lâm trận phun lửa, trong ống tống nhựa thông ra, trúng phải đâu, lập tức
bốc cháy, có cả hỏa pháo nhưng không nhiều”.
Trong 10 điều quân lệnh của Tôn Sĩ Nghị cũng ghi nhận: “Người An Nam có một loại võ
khí đặc biệt gọi là hỏa tiễn. Họ dùng một loại súng có nòng dài chừng hai tấc
rưỡi. Họ nhồi thuốc súng chia thành ba phần, sau đó dùng cây thụt phần thứ
nhất và phần thứ hai riêng rẽ xuống nòng súng, đóng chặt mỗi phần vài trăm
lần.
Phần thuốc nổ còn lại nhét vào đầu bằng sắt của một mũi tên cắm
vào nòng súng. Bước kế tiếp là nhét một sợi tre khô vào trong hộp súng có dây
dẫn lửa nối vào. Khi bùi nhùi được đốt lên, mũi tên bén lửa và bay ra. Mục
tiêu của chúng là đốt cháy quần áo các ngươi...
Một loại võ khí đặc biệt khác của người An Nam là hỏa cẩu. Đó là
một khối kim khí rỗng ruột nhét đầy thuốc súng và miểng sắt cùng lưu huỳnh,
trên đầu có ngòi truyền ra. Lính của chúng sẽ đốt ngòi nổ và ném về phía ta,
nếu thấy hỏa cẩu thì chỉ cần né tránh là không việc gì cả”.
Theo miêu tả, hỏa cẩu có thể là một dạng
lựu đạn!
Lương thực là bánh tráng
Việt Thanh chiến dịch cũng cho biết
lương thực của quân Tây Sơn mang theo khi tham gia chiến dịch là “bánh tráng”
(có thể có cả bánh tét nữa).
Và quân được điều động, chỉ huy bằng
tiếng trống, do đó mà khi Tây Sơn ra Bắc đã “cấm dân đánh trống”. Tiếng trống
ở miền Bắc chỉ được nổi lên khi quân Thanh tiến vào Thăng Long!
Trong các trận đánh tiến vào Thăng Long
năm Kỷ Dậu 1789 của Quang Trung cũng không “suôn sẻ” như sử ta kể lâu nay.
Cái tài của Quang Trung là đã thấy trước
việc quân Thanh sẽ vào nước ta từ sau khi Nguyễn Hữu Chỉnh bị diệt.
Và khi quân địch ồn ào kéo vào nước ta
thì ông khéo léo dụ địch bằng cách “giả bộ thua” và còn tương kế tựu kế
nhiều lần “gởi thơ nhận tội” để địch tưởng rằng chỉ một hai trận nữa là diệt
được Tây Sơn.
Trong khi đó thì ông âm thầm chuẩn bị
thế trận. Tình hình quân Thanh ở Thăng Long thì Quang Trung nắm rõ như lòng
bàn tay.
Trong một báo cáo, Trần Nguyên Nhiếp, một đô ty trong quân Tôn Sĩ
Nghị ghi lại: “Ngờ đâu Nguyễn nghịch quỷ quyệt nên đã sắp đặt gian tế khắp
nơi, lẻn vào đại doanh thám thính hư thực... Những nơi chứa lương hướng, hỏa
khí của ta đều có tai mắt của giặc”.
Bắt đầu tấn công vào ngày 29 tháng chạp
(24-1-1789), ngày 30 tháng chạp Tây Sơn vượt sông Giản Thủy đánh tan quân nhà
Lê Hoàng Phùng Nghĩa rồi thẳng tiến hướng về Thăng Long.
Ngày mùng 3 tháng giêng, vua Quang Trung
tự mình đốc chiến và đánh suốt ngày mới diệt được Hà Hồi, thiệt hại cũng lớn.
Ngày mùng 5 tháng giêng trận Ngọc Hồi cũng diễn ra ác liệt, theo
tài liệu của Hội truyền giáo Bắc Hà, “Nguyễn Huệ phải bỏ voi cưỡi
ngựa, xông lên đầu chỉ huy”.
Trần Nguyên Nhiếp viết: “Nghe nói đại doanh đã bị trận voi xông vào đốt cháy vì chưng
mỗi con voi trên lưng đủ chỗ cho ba bốn tên giặc đầu quấn khăn đỏ ngồi ném
các loại lưu hoàng, hỏa cẩu vào mọi nơi để đốt người”.
Còn trong trận Đống Đa do Sầm Nghi Đống và toán quân Miêu rất
thiện chiến chống giữ rất hăng nhưng cũng không ngăn được đà tiến quân. Và
cũng trong ngày mùng 5, Thăng Long bị “các cánh tượng binh và thủy
binh của Nam quân từ ba mặt kéo vây” khiến Tôn Sĩ Nghị
phải bỏ chạy.
Trần Nguyên Nhiếp ghi: “Đến được bờ sông, đại binh
tranh nhau vượt qua. Cầu nổi làm bằng tre và gỗ bắc ngang sông đã bị đứt
chìm xuống nước, lại thêm số nhân mã bị tượng trận đốt cháy chết chồng thêm
lên một tầng nữa đè cầu xuống. Người đi qua chân đạp lên xác người ở bên
dưới, chỉ còn đầu trồi lên phải đến ba dặm mới qua được bờ bên kia”.
Nguyễn Duy Chính đã bỏ ra 10 năm để
nghiên cứu tài liệu về Tây Sơn và vua Quang Trung. Ông sử dụng tài liệu ở
nước ngoài bằng Hoa, Pháp và Anh văn phối hợp cùng các tài liệu hoặc những
phát hiện của người trong nước để xác định còn rất nhiều điều về thời đại nầy
chưa được nói rõ ràng.
Và Việt - Thanh chiến dịch là một trong bốn tài liệu của ông sẽ được công bố lần lượt trong
năm nay.
(Theo Tuổi trẻ) TRẦN NHẬT VY
|
Thứ Bảy, 13 tháng 2, 2016
Đăng ký:
Đăng Nhận xét (Atom)
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét