Dân không giàu thì làm sao nước mạnh?
Cập nhật lúc 08:25
Sự đổi mới tư duy mạnh dạn trong cải cách thể chế, tạo thêm sức
mạnh cho nguồn nhân lực và cơ sở hạ tầng, trong đó tập trung xây dựng luật
pháp nhằm mở rộng hơn nữa không gian làm ăn cho người dân và doanh nghiệp tự
do kinh doanh là rất cần thiết. Điều này sẽ giúp rút ngắn hành trình đến với
mục tiêu “dân giàu nước mạnh”.
Những thông tin phần nào lạc quan vào cuối năm 2015 tại một diễn
đàn bàn chuyện “dân giàu nước mạnh” cho thấy khát vọng này của chúng ta vẫn
còn là một thách thức. Ba mươi năm qua, đất nước đã có những bước chuyển
mình, mà nếu lấy bình quân thu nhập đầu người để đánh giá thành quả đổi mới
kinh tế, sẽ thấy rằng chúng ta đã vượt qua một đoạn đường dài dù đang trong
điều kiện một nền kinh tế thị trường chưa hoàn chỉnh.
Vào năm 1986, thu nhập bình quân đầu người của Việt Nam chỉ 86
USD, bốn năm sau lên đến đến 98 USD, năm 2015 đã là 2.200 USD – gấp 21 lần
năm 1990 – và đang kỳ vọng năm 2020 sẽ tăng đến con số 3.500 USD. Vào buổi
bình minh của đổi mới cách đây ba thập niên, nước ta vẫn chủ yếu là sống nhờ
viện trợ, nay thì đã hội nhập toàn cầu với luật chơi khắc nghiệt của các hiệp
định thương mại cũng như của các định chế quốc tế.
Dưới góc nhìn vĩ mô, các nhà làm chính sách có thể hài lòng về
mức tăng trưởng GDP 4,4% trong thời kỳ đầu kinh tế chuyển đổi
1991-2000, rồi trong mười năm sau đó đã lên đến 6,78%. Tốc độ này nếu duy trì
được nhiều năm thì nền kinh tế đất nước đã có thể cất cánh, nhưng do tác động
dư chấn khủng hoảng kinh tế toàn cầu và những bất ổn trong điều hành vĩ mô
kéo dài từ năm 2011 đến nay, tăng trưởng chựng lại ở mức bình quân 5,8%, thế
nhưng nhiều người vẫn yên tâm rằng “tăng trưởng của chúng ta thuộc hàng cao
của thế giới”.
Phần đông người dân thuộc “thế hệ đêm trước đổi mới” hẳn đã cảm
nhận chất lượng cuộc sống của mình đổi thay sâu sắc, nhà cửa khang trang, bữa
cơm gia đình bớt đi phần đạm bạc, đô thị ngày càng nhộn nhịp cùng với cao
ốc hiện đại mọc lên ngày càng nhiều, khách du lịch và người nước
ngoài ngày càng đông, kiều hối gửi về nước đã chiếm gần 10% GDP...
Góp phần đáng kể cho sự khởi sắc của nền kinh tế còn là một không
gian làm ăn rộng mở, với hàng loạt bộ luật được thông qua để người dân được
kinh doanh những gì mà luật pháp không cấm, thu hút lượng vốn đầu tư nước
ngoài ngày càng nhiều. Và nếu không bỏ qua vài ba cơ hội trên hành trình phát
triển cũng như mạnh dạn với những cải cách đúng hướng thì nền kinh tế đã có
được nhiều bứt phá thuyết phục hơn.
Cho dù thành quả của công cuộc đổi mới được đánh giá cao đi nữa
thì những năm gần đây, quá nhiều điểm yếu của nền kinh tế đã dần bộc lộ: Đó
là năng lực cạnh tranh của nền kinh tế thấp do năng suất lao động của chúng
ta kém Singapore đến 15 lần, Nhật Bản 11 lần, Hàn Quốc 10 lần. Đó là sự
thiếu hiệu quả của khu vực kinh tế nhà nước, cùng với nợ xấu, nợ công
đang có xu hướng vượt quá tầm tay; là tham nhũng khó ngăn chặn được khi có sự
đồng hành của các nhóm lợi ích. Đó còn là sự lệ thuộc quá nặng nề về kinh tế
với một Trung Quốc có tham vọng bá quyền...
Sẽ rất thiếu sòng phẳng nếu không nhìn thẳng vào thực tế về một
nguy cơ tụt hậu để không còn mơ tưởng đến một nước công nghiệp hoá - hiện đại
hoá vào năm 2020.
Thế là trên nhiều diễn đàn tìm con đường tăng trưởng phù hợp với
tình hình mới, lời kêu gọi về một cải cách thể chế đã không còn đơn độc.
Có thể nói đây là sự đòi hỏi một cuộc đổi mới tư duy lần
thứ hai nhằm nâng cao chất lượng bộ máy hành chính công quyền, hoàn
thiện chính sách, loại bỏ những căn bệnh kéo dài làm trì trệ nền kinh tế sau
cuộc đổi mới lần thứ nhất cởi trói cho sản xuất thành công.
Bàn về yêu cầu cải cách thể chế, nhiều nhà nghiên cứu cho rằng
trước hết cần tư duy đúng về mục tiêu phát triển trong đó con người có vai
trò trung tâm. Một quốc gia mà dân không không giàu thì làm sao nước mạnh;
nước không mạnh thì làm sao có dân chủ, làm sao có công bằng, văn minh. Chính
vì vậy mọi chủ trương, chính sách cũng như qui định của luật pháp phải nhằm
đến mục tiêu làm sao cho dân giàu.
Để làm được điều này thì nguồn lực quốc gia bao gồm tài nguyên
đất đai, tài chính và nhân lực cần được phân bổ đúng nơi nào, người nào mang
lại hiệu quả cao nhất, không phân biệt nhà nước hay tư nhân.
Kinh nghiệm nhiều nơi trên thế giới cho chúng ta bài học quí giá
về điều này.
Trước hết là Đài Loan. Năm 1949, chinh quyền Quốc Dân Đảng bỏ
chay từ lục địa ra Đài Loan mang theo toàn bộ dự trữ vàng và ngoại tệ. Quan
trọng hơn là họ đã mang theo giới thương nhân và trí thức hàng đầu để xây
dựng quê hương mới. Chính dòng tiền và nhân lực này là nền tảng cho sự phát
triển của Đài Loan sau này.
Năm 1950 nền kinh tế Đài Loan với khoảng 70 đến 80% là quốc
doanh, chính quyền vẫn giữ nguyên cơ cấu này, nhưng đồng thời quyết tâm phát
triển kinh tế tư nhân – phần lớn là doanh nghiệp nhỏ và thành phần “buôn
thúng bán bưng” – bằng những luật lệ tạo bình đẳng về mọi mặt cho giới làm
ăn. Chỉ 10 năm sau, số lượng doanh nghiệp của hai thanh phần đã ngang bằng
nhau và trong vòng 15 năm, thành phần tư nhân chiếm đến 76% số doanh nghiệp.
Quốc doanh vẫn phát triển, nhưng tư nhân phát triển nhanh hơn, đặc biệt
là doanh nghiệp vừa và nhỏ, đã gánh vác cả những mặt yếu kém của người bạn
đồng hành quốc doanh.
Giải pháp đó không hề gây sự xáo trộn nào về kinh tế, chính trị,
xã hội phát triển hài hoà, công bằng, tạo nên một “kỳ tích Đài Loan” cùng với
Hàn Quốc, Singapore và Hongkong trở thành bốn con rồng châu Á.
Nền kinh tế Đài Loan không có những “ông lớn” như Hàn Quốc hay
Nhật Bản, nên khi một doanh nghiệp nhỏ từ bỏ cuộc chơi là trở thành “phân
bón” nuôi lớn một doanh nghiệp nhỏ hơn mới ra đời, vì vậy mà ngày nay các khu
công nghiệp lớn của lãnh thổ này đều đi lên bằng đôi chân vững vàng của kinh
tế tư nhân.
Nhưng không chỉ có Đài Loan tạo được kỳ tích. Vào hậu bán thế kỷ
XX, chúng ta cũng đã chứng kiến sự thần kỳ của ba nền kinh tế vươn lên mạnh
mẽ sau chiến tranh. Người Đức chỉ 15 năm sau ngày Thế chiến thứ Hai kết thúc
đã đi một bước dài trên con đường hồi sinh của người bại trận và nay là đầu
tàu của kinh tế châu Âu.
Cũng trong cùng hoàn cảnh, người Nhật sau chiến tranh đã đứng dậy
trên điêu tàn và thành công trong việc thực hiện giấc mơ lớn chỉ sau mười năm
phát triển thần tốc với mức tăng trưởng bình quân 10% mỗi năm. Năm 1968 Nhật
trở thành cường quốc kinh tế thứ hai và chỉ chịu nhường vị trí này cho Trung
Quốc bốn năm gần đây.
Hàn Quốc cũng là trường hợp rất đáng ngưỡng mộ, cũng vươn lên từ
sau chiến tranh Triều Tiên, nhưng đã không chịu đầu hàng số phận, lấy giáo
dục làm bệ phóng đưa cả dân tộc đi lên, tận dụng hiệu quả những đồng tiền
chắt chiu qua đó tạo sức bật cho ngành công nghiệp để không còn lệ
thuộc vào nước ngoài và nay đã vượt châu Âu với thu nhập bình quân đầu người
hơn 30.000 đô la Mỹ.
Gần gũi chúng ta là Trung Quốc, nền kinh tế thứ hai thế giới, mà
giáo sư Trần Văn Thọ – chuyên gia kinh tế có uy tín – trong một bài
báo gần đây đã viết: “Tuy đề ra chủ trương xây dựng nền kinh tế thị
trường xã hội chủ nghĩa, nhưng trên thực tế hầu như họ gát lại một bên lý
tưởng XHCN, mà tập trung phát triển bằng các chính sách, biện pháp phổ quát tại
các nền kinh tế tư bản chủ nghĩa, mà cụ thể là cho kinh tế tư nhân tự do
phát triển và cho nước ngoài đến đầu tư trực tiếp” (TBKTSG 26-2-2015). Thành
công kinh tế Trung Quốc là do không để ý thức hệ kìm hãm phát triển.
Chúng ta đang đứng ở ngưỡng cửa của chu kỳ kinh tế năm năm cuối
thực hiện giấc mơ công nghiệp hoá - hiện đại hoá đất nước vào năm 2020, cũng
là thời điểm bước vào sân chơi lớn Cộng đồng ASEAN (AEC), Hiệp định Đối tác
xuyên Thái Bình Dương (TPP), Hiệp định Thương mại Tự do EU - Việt Nam, với kỳ
vọng tạo nên sức bật mới cho nền kinh tế. Nhưng vấn đề còn lại là chúng
ta đã chuẩn bị nội lực như thế nào để hạn chế những thua thiệt của một nền
kinh tế đang ở “chiếu dưới”.
Chính vì vậy mà một sự đổi mới tư duy mạnh dạn trong cải cách
thể chế, tạo thêm sức mạnh cho nguồn nhân lực và cơ sở hạ tầng, trong đó tập
trung xây dựng luật pháp nhằm mở rộng hơn nữa không gian làm ăn cho người dân
và doanh nghiệp tự do kinh doanh là rất cần thiết. Điều này sẽ giúp rút ngắn
hành trình đến với mục tiêu “dân giàu nước mạnh”.
(Theo Phụ nữ số
xuân) Trần Trọng Thức
|
Thứ Năm, 11 tháng 2, 2016
Đăng ký:
Đăng Nhận xét (Atom)
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét