Thứ Tư, 24 tháng 2, 2021

Lịch sử

 

CAO BẰNG ĐẦU NĂM 1979

(kỳ 10)

Cập nhật lúc 08:08    

 


Mọi người trong hang huyện ủy khẩn trương chuẩn bị cho cuộc chiến đấu ngày mai và những ngày tiếp theo. Lời dặn dò của chính trị viên Hoàng Quốc Doanh về việc phải để lại cho mình quả lựu đạn cuối cùng, không được để địch bắt cứ luôn ám ảnh trong tâm trí tôi. Trong lúc chuẩn bị chiến đấu ấy Nguyễn Xuân Hòa, nhân viên thống kê chính trị tiểu đoàn đã đưa cho tôi một quả lựu đạn mỏ vịt nhãn hiệu US của Mỹ. Quả lựu đạn ấy luôn luôn ở bên tôi cho đến khi kết thúc cuộc chiến tranh biên giới phía Bắc. Nó chưa phải dùng đến tuy đã một lần rút chốt khi bộ phận của tôi bị bọn giặc đuổi theo sát sau lưng ở thung lũng Táp Ná, Thông Nông.

Gần sáng ngày 18-2, Thượng úy Hoàng Quốc Doanh, chính trị viên tiểu đoàn đến chỗ tổ đài vô tuyến ở cửa hang phụ hỏi:

- Máy vô tuyến điện chuyển về đây có đảm bảo liên lạc với các hướng có ổn không?

Tôi đáp:

- Báo cáo thủ trưởng! Máy đặt ở trên cao lưng chừng núi thế này liên lạc rất tốt, thông suốt ạ!

Chính trị viên Doanh có vẻ yên tâm. Trước khi quay trở lại trong hang anh còn căn dặn tôi thêm:

- Mày phải hết sức cố gắng hết để đảm bảo mạng liên lạc bằng vô tuyến điện nhé! Mất liên lạc lúc này là mất chốt, là thất bại đấy, hiểu không?

- Vâng ạ! Em sẽ cố gắng…

Chính trị viên Hoàng Quốc Doanh trở vào trong hang. Hầu như suốt đêm các cán bộ chỉ huy tiểu đoàn không ngủ bàn phương án chiến đấu cho ngày hôm sau và thay nhau đi kiểm tra việc chuẩn bị chiến đấu của các đơn vị. Tiểu đoàn phó Nguyễn Quang Cương và chính trị viên phó tiểu đoàn Bùi Đức Hòe đã trực tiếp xuống các điểm chốt chỉ huy chiến đấu. Tôi ôm súng gục đầu lên ba lô cố chợp mắt lấy một lát nhưng không tài nào ngủ được. Gần sáng, trời càng lạnh. Gió thổi qua hang ù ù. Tôi chui ra ngoài cửa hang phụ trèo lên một mỏm đá nhìn lên hướng biên giới. Phía cửa khẩu Bình Mãng tiếng đạn pháo của địch chốc chốc lại gầm lên, tiếng động cơ xe cơ giới của chúng gầm rú vọng về rất rõ.

Sắp sáng rồi. Ngày chiến đấu ác liệt thứ hai lại sắp bắt đầu. Chắc toàn tiểu đoàn lúc này có nhiều người cũng không ngủ như tôi.

Một chùm đạn pháo từ phía bên kia biên giới bắn sang rơi xuống thị trấn Sóc Giang và mỏm núi hang huyện ủy. Những tảng đá to trên đỉnh núi trúng đạn pháo lớn vỡ toác lăn xuống ầm ầm. Tôi vội lao ngay vào trong cửa hang vớ lấy tổ hợp máy vô tuyến chụp lên đầu. Các đơn vị bắt đầu báo cáo tình hình về ban chỉ huy tiểu đoàn…

Tờ mờ sáng 18-2, bọn địch lại bắt đầu tổ chức tấn công lên trận địa chốt của Đại đội 11. Quyền đại đội trưởng, thiếu úy Trần Hữu Hoàn chỉ huy đơn vị chiến đấu kiên quyết bảo vệ trận địa, đẩy lùi các đợt tấn công của địch. Việc thiếu úy Hoàn thay thế trung úy Tuân chỉ huy Đại đội 11 giúp các cán bộ, chiến sĩ thấy vững tin, yên tâm hơn. Ngay từ tối hôm trước lãnh đạo, chỉ huy tiểu đoàn qua thông tin vô tuyến điện đã đề nghị trung đoàn cách chức vụ đại đội trưởng Đại đội 11 của trung úy Tuân nhưng trung đoàn không đồng ý. Đến gần sáng ngày 18-2 thì liên lạc qua vô tuyến điện với trung đoàn không thực hiện được nữa. Chính trị viên tiểu đoàn Hoàng Quốc Doanh sau khi trao đổi với tiểu đoàn trưởng đã quyết định điều động trung úy Tuân về cơ quan tiểu đoàn bộ và giao cho thiếu úy Trần Hữu Hoàn quyền chỉ huy Đại đội 11 chiến đấu bảo vệ chốt. (Chi tiết này vừa rồi Đại tá Hoàng Quốc Doanh, nguyên chính trị viên Tiểu đoàn 3 ngày ấy mới nói lại cho tôi biết. Thiếu úy Trần Hữu Hoàn sau này là Thiếu tướng, Tham mưu phó Quân khu 1, hiện anh đã nghỉ hưu và sinh sống tại thành phố Cao Bằng).

Ngày 18-2, rút kinh nghiệm ngày đầu tiên, bọn địch tổ chức tấn công liên tục vào các điểm chốt của Đại đội 11. Một ngày, các cán bộ, chiến sĩ Đại đội 11 và trung đội 3 của Đại đội 10 lên tăng cường phải gồng mình đương đầu với 8 đợt tấn công của bọn địch. Bọn bành trướng Trung Quốc ỉ vào lợi thế quân đông và hỏa lực mạnh tạo sức ép liên tục để phá vỡ tuyến phòng ngự của ta. Đại đội 11 bị thiệt hai nặng. Đến chiều, chỉ huy Đại đội 11 báo cáo về chốt cây đa thứ nhất lại lọt vào tay quân thù. Chỉ huy tiểu đoàn lệnh cho Đại đội 11 kiên quyết chiến đấu giữ vững chốt cây đa thứ hai, ngăn chặn không cho địch phát triển xuống thị trấn Sóc Giang. Đến tối, bọn địch ngừng tấn công cụm lại ở chốt cây đa thứ nhất. Đại đội 11 báo cáo: “Ta tiêu diệt khoảng 150 tên địch, bắn cháy 2 xe tăng của chúng. Trung đội trưởng Lê Hồng Giang chiến đấu rất dũng cảm, tiêu diệt được một chiếc xe tăng quân địch. Bảy đồng chí hy sinh, trong đó có chính trị viên phó Nguyễn Mộng Lân, đại đội phó Diệp Văn Năm”.

Bức điện của Đại đội 11 làm cho không khí trong hang huyện ủy lắng xuống, nặng nề, u ám. Quân xâm lược bị thua đau nhưng chúng ta cũng bị thiệt hại và hy sinh quá lớn. Trung úy Nguyễn Mộng Lân mới từ trung đoàn bổ sung về Đại đội 11 tối hôm qua, chưa đầy một ngày anh đã hy sinh.

Đêm ngày 18-2, chuẩn úy Lê Hồng Giang lại dẫn bộ đội lên đánh chiếm lại chốt cây đa thứ nhất. Lợi dụng sương mù, bọn địch đang xây dựng trận địa, Lê Hồng Giang giao cho một cán bộ tiểu đội phụ trách trung đội rồi một mình một súng bò lên đỉnh điểm chốt cây đa thứ nhất. Anh đã bất ngờ nổ súng giữa lòng địch. Quân địch bị đánh bất ngờ không biết quân ta từ phía nào mà đối phó, chúng bắn loạn xạ trúng cả vào nhau. Trung đội của Lê Hồng Giang lợi dụng tình hình đó đánh thốc lên giành lại trận địa. Hai ngày qua, chấp hành mệnh lệnh của tiểu đoàn, chuẩn úy Lê Hồng Giang đã hai lần dẫn đơn vị tập kích lên tái chiếm chốt cây đa thứ nhất.

Trước đó, trong buổi sáng 18-2, khi bọn địch tổ chức tấn công liên tục vào trận địa của Đại đội 11 và khu vực do trung đội của Lê Hồng Giang phòng ngự. Xe tăng quân địch thường đi sau lực lượng bộ binh của chúng bắn thẳng vào các tuyến phòng ngự, gây ra nhiều thương vong khiến cho bộ đội ta có chiến sĩ hoang mang, lo sợ. Trước tình hình đó, Lê Hồng Giang quyết tâm phải tiêu diệt bằng được xe tăng của địch. Do xe tăng của chúng luôn chạy ở phía sau bộ binh nên rất khó tiếp cận để bắn. Xe tăng chúng cứ vừa tiến vừa bắn vào công sự trận địa của gần đến chân chốt thì quay vòng trở lại núp sau lực lượng bộ binh. Phương châm chỉ đạo và chiến thuật “lấy người thay vũ khí, vũ khí quý hơn người” kiểu này của bọn bành trướng thật là lạ. Lê Hồng Giang đã ôm súng chống tăng lăn xuống chân đồi. Anh nằm lẫn vào đống xác chết của quân giặc. Chờ cho bộ binh địch tràn qua, chiếc xe tăng địch tiến lại gần, Lê Hồng Giang nhỏm dậy bắn liền hai quả đạn B41 tiêu diệt một xe tăng và nhiều bộ binh địch. Trúng đạn địch bị thương vào tay, Giang vẫn bò trở về được trận địa của quân ta.

Ngày hôm sau, trung đội của Lê Hồng Giang cùng các chiến sĩ Đại đội 11 tiếp tục chiến đấu bảo vệ chốt cây đa thứ nhất. Khi quân địch tràn lên anh vẫn kiên cường chiến đấu đến viên đạn cuối cùng. Lê Hồng Giang bị thêm nhiều vết thương và bị đất đá vùi lấp ngất đi. Khi tỉnh dậy thì một mắt anh đã bị mù, một chân bị gãy, vết thương hôm trước ở cánh tay trái bị vỡ ra, máu chảy nhiều nên tê dại hẳn đi. Trận địa đã lắng im tiếng súng. Chỉ còn một mình Giang giữa đội hình quân giặc. Suy nghĩ đầu tiên của anh là phải tìm về đơn vị. Lợi dụng bóng đêm và sương mù dày đặc Giang bò lết đi từng đoạn một. Đói khát và đau đớn nhiều lần anh ngất xỉu đi. Tỉnh dậy Giang lại dùng cánh tay phải còn lành lặn lết người bò đi. Gặp một thân cây chuối to, Giang đã phải bò không biết bao nhiêu vòng xung quanh gốc nó dùng răng gặm tước dần từng lớp bẹ, cho đến khi tới cái nõn của cây chuối ăn lấy sức bò tiếp đi tìm đơn vị. Với quyết tâm và nghị lực phi thường anh đã chiến thắng. Lê Hồng Giang đã gặp được một chiến sĩ dân tộc H’Mông tên là Mù A Sảng cõng tìm về đơn vị.

Ngày thứ hai của cuộc chiến tranh, bọn giặc với số lượng quân đông gấp bội và sự chi viện tối đa của các loại hỏa lực mạnh vẫn không thể chọc thủng được tuyến phòng thủ của Tiểu đoàn 3 từ hướng biên giới. Lực lượng của quân ta chống chọi với hai trung đoàn của địch chỉ là một đại đội và một trung đội tăng cường. Giữ vững được trận địa nhưng chúng tôi hiểu rằng những gì ác liệt nhất, gian khổ hy sinh nhiều nhất đang còn chờ chúng tôi ở những ngày tiếp theo…

Dưới đây là trang nhật ký chiến tranh tôi đã ghi về ngày 18-2-1979:

“- Hướng cửa khẩu Bình Mãng: Địch tấn công 8 đợt cả ngày, bắt đầu từ 5 giờ sáng. Chúng chia làm 3 mũi: Một mũi từ trên sườn núi đá đánh xuống, một mũi từ từ phía bản Nà Sác đánh lên, một mũi từ bờ suối đánh vòng lên bên trái chốt cây đa thứ hai. Rút kinh nghiệm ngày đầu tiên, địch tấn công liên tục để tạo áp lực mạnh để phá vỡ tuyến phòng thủ của ta.

- Ta: Đại đội 11 cùng một trung đội của đại đội 10 tăng cường đã dũng cảm chiến đấu giữ vững chốt, tiêu diệt 2 xe tăng, hơn 150 tên địch, bẻ gãy cả 8 đợt tấn công của chúng. Trung đội trưởng, Chuẩn uý Lê Hồng Giang (Đại đội 10 lên tăng cường) bắn hai quả đạn B41 diệt một xe tăng địch, bị thương mù một mắt, gãy một tay còn dùng AK bắn quân địch ngã tơi tả. Chuẩn úy Giang bị thương nặng nhưng vẫn kiên quyết cùng đồng đội bám trụ trận địa.

- Hi sinh ngày 18-2: Đại đội 11 có 7 đồng chí hy sinh, nhiều người khác bị thương, có 2 cán bộ hy sinh là đại đội phó Diệp Văn Năm và chính trị viên phó Nguyễn Mộng Lân. Đại đội 11 bị thiệt hại nặng nhưng vẫn kiên cường chiến đấu giữ vững trận địa, đẩy lui nhiều đợt tấn công dữ dội của quân địch…”...

Cao Bằng- 1979

Ghi chép của Trọng Bảo

Theo Báo điện tử Tầm nhìn

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét