Thứ Năm, 18 tháng 2, 2021

Lịch sử

CAO BẰNG ĐẦU NĂM 1979

 (kỳ 3) 

Cập nhật lúc 20:05                 

Sau tết âm lịch xảy ra một vụ việc rất nghiêm trọng. Bọn Trung Quốc bất ngờ nổ súng vào lực lượng tuần tra biên giới của ta tại khu vực cột mốc 115. Hai chiến sĩ trinh sát hy sinh, một đồng chí bị thương. Việc ứng cứu, đưa các chiến sĩ hy sinh và bị thương từ vị trí xảy ra chạm súng về tuyến sau rất khó khăn.


Địa hình khu vực này bọn địch có tầm quan sát rộng, lại có các điểm cao của chúng sát biên giới khống chế cả một vùng rộng lớn xung quanh. Chúng ta đưa lực lượng lên ngay sẽ tiếp tục bị tổn thất. Đến nửa đêm, ta mới đưa được các chiến sĩ trong tổ tuần tra hy sinh và bị thương về phía sau. Họ là những người lính đầu tiên ngã xuống trong chiến tranh biên giới phía Bắc ở khu vực Hà Quảng, Cao Bằng. Không khí tang thương chết chóc bao trùm khắp các đơn vị và các bản làng khu vực thị trấn Sóc Giang, xã Sóc Hà.

Lễ truy điệu các đồng chí hy sinh được tiến hành ngay ngày hôm sau trong không khí ảm đạm. Tôi nhìn trong ánh mắt của những người lính, người dân không thấy sự sợ hãi, chỉ thấy ánh lên nỗi đau thương, sự căm thù và có đôi chút lo lắng. Trong thời điểm này chúng tôi hầu như ai cũng đều lo lắng. Chúng tôi lo không giữ nổi trận địa trước “biển người” của bọn xâm lược, lo lắng cho nhân dân

còn đang sinh sống ở gần tuyến đầu biên giới. Nhân dân, thanh niên từ phía sau cũng không còn kéo lên đường biên củng cố hàng rào, đào hố cắm chông nữa. Chuyện ném đá, đánh nhau bằng gậy gộc của cả hai bên đều chấm dứt, chuẩn bị cho một cuộc đấu súng thực sự. Trạm kiểm soát của công an vũ trang cửa khẩu Bình Mãng đã rút hết lực lượng về phía sau. Nhân dân các bản gần đường biên được yêu cầu đi sơ tán triệt để. Tôi chợt thấy lạnh lòng khi nhìn cảnh người dân lam lũ gồng gánh đồ đạc, dắt díu trẻ con, lùa trâu bò đi xuôi về phía sau, bộ đội lầm lũi vác súng đạn ngược lên phía trước.

Đất nước mình nghèo quá nhưng biết đến bao giờ mới hết cảnh loạn lạc như thế này? Không khí chiến tranh đã thực sự nóng lên từng ngày. Tình hình căng thẳng như một sợi dây đàn tăng quá cỡ sắp đứt phựt. Cánh lính chúng tôi không còn dám đi lại lung tung nữa. Mỗi lần có nhiệm vụ lên sát đường biên phải hết sức thận trọng, đi dưới chiến hào, trong khe núi đá hay dưới lòng suối tránh tầm quan sát trên các điểm cao của bọn giặc.

Sau vụ việc này, bọn Tàu vẫn không ngừng khiêu khích. Bọn chúng liên tục bắn súng sang và tăng cường phá hoại các tuyến rào phòng thủ của chúng ta. Đường biên vắng lặng không một bóng người nhưng đâu đó sau các mô đá, dưới lòng mương, cạnh bờ ruộng vẫn có những người lính luôn dõi mắt cảnh giác về phía quân thù. Chúng tôi vẫn thường xuyên có mặt trên tuyến đường biên giới củng cố đường dây thông tin, đảm bảo liên lạc bằng vô tuyến điện tại trận địa tiền tiêu của Đại đội 11 ở chốt hai cây đa sát cửa khẩu Bình Mãng.

Bản Nà Sác nằm sát đường biên nên khi tình hình căng thẳng, nhiều hộ dân đã đi sơ tán. Lúc dừng chuẩn bị bữa trưa, chúng tôi phải vào một nhà ở cách biệt tận trong hõm núi mới có người còn ở lại để nhờ nấu cơm. Nhà chỉ có hai cô gái. Cô chị tên là Kim chưa đầy hai mươi, cô em tên là Ngân mới mười bảy tuổi. Họ đều là dân quân ở lại bám bản. Trung đội trưởng Phạm Hoa Mùi chắc đã biết rõ về gia đình này. Anh ra hiệu cho tôi không được hỏi thăm gia cảnh của họ. Hai chị em giành việc nấu cơm giúp chúng tôi. Tôi gỡ nắp ba lô đưa cho họ bao gạo và túi thức ăn gồm hộp thịt và bó rau.

Bữa cơm dọn ra, cơm gạo mới thơm phức, lại có cả thịt gà nữa. Hai chị em cùng ăn với chúng tôi. Họ ngồi ở đầu nồi xới cơm. Quả là hai cô gái rất đẹp. Con gái Tày đã đẹp lại thường có nước da rất trắng và đôi mắt sáng long lanh như ngọc. Suốt bữa, chị em Kim, Ngân ăn rất ít, họ lo tiếp thức ăn cho chúng tôi. Chúng tôi vui vẻ nói chuyện. Nhưng tôi vẫn nhận ra nét mặt, nhất là trong đôi mắt của hai chị em họ phảng phất ẩn chứa một nỗi buồn sâu thẳm.

Ăn cơm xong, chúng tôi lại tiếp tục lên đường. Hai chị em Kim, Ngân khoác ba lô của chúng tôi tiễn ra tận đầu dốc. Nhận chiếc ba lô của mình từ tay bé Ngân tôi nhận thấy bao gạo buộc tên nắp ba lô vẫn còn nguyên. Dọc đường, Mùi mới kể lại cho tôi nghe câu chuyện về hai chị em họ. Đó là một gia đình có những khoảng thời gian tràn ngập hạnh phúc. Nhà họ ngày xưa ở giữa bản, trâu ngựa, lợn gà đầy sân, thóc lúa đầy sàn. Hai cô con gái càng lớn, càng xinh đẹp. Đêm đêm bóng trai bản rập rình ngoài ngõ. Chẳng phải bỏ bùa yêu mà mãi tận những bản xa cũng có lũ con trai kéo đến thổi kèn lá gọi bạn thâu đêm ngoài bờ rào. Ông bố của hai nàng phải đốt đuốc, gõ ống bương lốp cốp để xua bọn con trai si tình. Ông muốn để hai con học hành đến nơi, đến chốn.

Nhưng rồi tai hoạ đổ xuống đầu họ. Sau một lần khám bệnh, đoàn y tế trên tỉnh về phát hiện ông bố có triệu chứng của bệnh phong. Ở vùng núi xa xôi hẻo lánh này tin đó như một tiếng sét đánh gãy thân cây cổ thụ. Dân bản xa lánh dần, trai tráng không còn dập dìu trước ngõ nữa. Khi người ta xác định đúng là ông bố bị bệnh phong thì hai chị em Kim, Ngân không còn dám đến lớp nữa. Bệnh hủi khiến nhiều người ghê tởm, xua đuổi. Đêm đêm, người ta ném gà chết, chó mèo chết vào nhà. Gia đình họ phải dỡ nhà, khênh từng cây cột, cái kèo vào hẻm núi. Ông bố cố gắng dựng lại ngôi nhà cho vợ và hai con gái trước khi được gọi đi tập trung chữa bệnh ở một trại phong mãi dưới xuôi.

- Chuyện là như vậy đấy! - Phạm Hoa Mùi vừa xốc lại ba lô vừa hỏi tôi: - Ông có thấy sợ không? Biết là bệnh phong không lây, không di truyền nhưng vốn là người yếu bóng vía nên tôi cũng thấy hơi sờ sợ. Ở quê tôi người ta thường rất sợ căn bệnh này. Bố tôi đã hơn trăm tuổi. Ông thường kể cho tôi nghe chuyện ngày trước ở làng bên có một người bị bệnh hủi. Dân làng phát hiện xa lánh, họ muốn đuổi cả nhà người có bệnh đi khỏi làng. Nhất là khi người bệnh đã phát nặng mặt mũi sù sì, chân tay co quắp phá mủ chảy nước vàng hôi thối.

Trước cảnh ngày nào dân làng cũng xua đuổi, lý trưởng, chánh tổng phạt vạ, uy hiếp, những người con của người bệnh đã phải đi đến một quyết định khủng khiếp nhất. Họ mổ gà, giết lợn làm cơm cho ông ăn. Sau bữa cơm li biệt ấy, người con cả chủ trì lễ tế sống bố. Họ để ông ngồi trên sập rồi vái lạy. Đến tối, cả nhà gạt nước mắt đưa ông lên chiếc thuyền nan nhỏ. Nước lũ từ thượng nguồn sông Đáy đang đổ về cuồn cuộn. Con thuyền nhỏ của những đứa con trong lòng rỉ máu ấy đưa ông bố tật bệnh ra một chiếc chòi nhỏ trên bãi bồi giữa sông. Họ để ông bố ở đấy rồi thả thuyền xuôi về phía hạ lưu chờ.

Nước dâng ngập bãi bồi, dìm chết người cha bị bệnh hủi. Dân chài lưới phía hạ lưu giúp những người con tìm xác ông bố bị lũ cuốn trôi xuôi. Khi còn nhỏ tôi cũng thường nghe chuyện người hủi chết huyệt phải đào sâu bốn mét đổ vôi bột sống xuống rồi mới hạ quan tài, rắc thêm vôi bột lên trên xong mới lấp. Mả hủi thường phải chôn rất xa những ngôi mộ khác.

Phạm Hoa Mùi còn kể cho tôi nhiều chuyện buồn của hai chị em Kim. Ngân. Họ không còn bạn bè, xóm giềng. Hai chị em lớn lên như hai bông hoa tươi tắn, xinh đẹp nhưng không một chàng trai nào đến tìm nữa. Họ phải lên núi cao tìm chỗ làm nương trỉa ngô. Nỗi đau cô đơn của họ thật là khủng khiếp. Người mẹ của họ đau buồn rồi ốm chết.

Một buổi tối, hai chị em vừa chuẩn bị đi ngủ thì có tiếng chân bước lên sàn. Hai chị em hoảng sợ ôm chặt lấy nhau. Bởi vì đã rất lâu không còn có ai dám vào nhà họ nữa. Có tiếng gọi nhỏ: “Các con ơi!”. Bé Ngân reo lên: “Bố! Bố về...”. Họ mở cửa đón bố. Biết tin vợ chết, ông trốn trại phong tìm về nhà. Hai đứa con vừa khóc vừa nấu cơm nếp, làm thịt gà cho bố ăn, gói cho bố đem đi đường. Họ van xin: “Bố phải ra đi ngay trong đêm, ngày mai sáng ra dân bản mà nhìn thấy sẽ xua đuổi, sẽ hắt hủi chúng con...”. Ông nhìn hai đứa con gái nước mắt ròng ròng.

Ông ra đi rồi biệt tích từ đó. Có tin đồn ông đã chết đuối ở sông Bằng khi trèo mảng qua sông giữa đêm. Lại có người bảo ông đã lấy một người đàn bà cùng cảnh ngộ rồi được trợ giúp làm nhà chữa khỏi bệnh và ở ngay trong khu trại phong. Sau này, khi cuộc chiến tranh biên giới nổ ra, hai chị em Kim, Ngân vẫn ở lại. Họ vác đạn lên trận địa, đưa thương binh về tuyến sau. Hơn chục ngày giao chiến với kẻ địch đông và mạnh ở thị trấn, chúng tôi rút lui lên núi. Đơn vị chia làm nhiều mũi đột phá vòng vây để rút đi. Lên đến Lũng Vỉ, bất ngờ tôi gặp Ngân. Cô bé súng khoác trên vai chững chạc, dày dạn hẳn lên. Tôi hỏi ngay: - Hai chị em thế nào rồi?

Ngân bật khóc: - Chị Kim em chết rồi! Bọn địch phát hiện chị ấy chạy ra bờ suối đánh lạc hướng để cứu thương binh. Khi chúng xông đến định bắt sống thì chị ấy đã cho nổ quả lựu đạn... Tôi cầm tay Ngân, muốn an ủi cô bé nhưng chẳng biết nói thế nào...

(Còn nữa)

Ghi chép của Trọng Bảo

Theo Báo điện tử Tầm nhìn

 

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét