Chuyển nợ xấu thành cổ phần doanh nghiệp: Nhiều nguy cơ
Cập nhật lúc 15:05
(Tài chính) - Một món nợ
đã mất khả năng chi trả, thì với giá nào cũng bán, mua giá nào cũng xong - TS
Bùi Quang Tín.
PV:- Ngân
hàng Nhà nước đang lấy ý kiến hoàn thiện dự thảo hướng dẫn việc góp vốn, mua
cổ phần của các tổ chức tín dụng, trong đó có phần liên quan đến hoán đổi nợ
xấu thành vốn góp cổ phần. Ông bình luận như thế nào về nội dung trên?
TS Bùi Quang Tín:- Đây cũng là một giải pháp xử lý nợ xấu mà quốc tế đã làm. Tuy nhiên, ở
Việt Nam nợ xấu lại được chia làm 3 nhóm: nợ xấu thuộc nhóm 3, nợ xấu
thuộc nhóm 4 và nợ xấu thuộc nhóm 5.
Trong đó, nợ xấu thuộc nhóm 5 là nhóm nợ đã rơi vào tình trạng gần như
đã mất khả năng chi trả. Như vậy, nếu quy định chỉ cho các TCTD tham gia hoán
đổi nợ xấu ở nhóm 5 thì có mấy vấn đề e ngại sau:
Thứ nhất, các TCTD không có sở trường trong lĩnh vực quản trị doanh
nghiệp. Trong khi đó, các doanh nghiệp kinh doanh thường có rất nhiều lĩnh
vực, ngành nghề khác nhau. Vậy thì, khi đã góp vốn vào doanh nghiệp nghĩa là
các TCTD phải tham gia điều hành, quản trị doanh nghiệp đó, như vậy liệu họ
có đủ kinh nghiệm, đủ hiểu biết, đủ nguồn lực để điều hành, quản lý doanh
nghiệp đó không?
Thứ hai, như đã nói nợ nhóm 5 là nhóm nợ gần như đã mất khả năng chi
trả, nếu muốn các doanh nghiệp có thể tiếp tục hoạt động được buộc các TCTD
phải tiếp tục đổ thêm vốn vào doanh nghiệp.
Trong khi, đa phần những doanh nghiệp có nợ xấu đều làm ăn không hiệu
quả. Điều này có thể xuất phát từ khả năng quản trị kém, ngành đang gặp khó
khăn hoặc thiếu vốn. Trong trường hợp khó khăn chủ yếu do thiếu vốn, sự tham
gia của NH có thể mang lại hiệu quả cao. Ngân hàng có cơ hội thu hồi được vốn.
Ở trường hợp ngược lại, ngân hàng trong tình trạng tay ngang đi làm
kinh tế vừa thiếu kinh nghiệm, vừa thiếu tư duy trong điều hành, quản trị như
vậy sẽ rất khó chèo lái được doanh nghiệp.
Như vậy, việc các TCTD tiếp tục đổ thêm vốn vào đây là quá mạo hiểm,
khó thu hồi được cả vốn cũ lẫn vốn mới. Nợ chồng thêm nợ.
Trường hợp nợ nhóm 5 và là nợ của các DNNN thì câu chuyện góp vốn còn
phức tạp hơn nhiều. Ở đây không đơn thuần chỉ là câu chuyện thiếu vốn, có rất
nhiều nhân tố như cơ cấu nhân sự, trình độ quản lý, kể cả những tác động về
mặt chính sách, chủ trương trong quá trình điều hành, quản lý cũng là nguyên
nhân dẫn tới sự đổ vỡ của các DNNN.
Vì vậy, việc các ngân hàng tham gia góp cổ phần vào DNNN sẽ phải
đối diện với hàng loạt những khó khăn, phức tạp không dễ xử lý được.
Chỉ trừ trường hợp nếu doanh nghiệp đang sở hữu tài sản như quỹ đất
lớn và việc chuyển đổi nợ thành vốn kèm theo triển khai các dự án bất động
sản, đó sẽ được coi là một cơ hội đầu tư tốt đối với các ngân hàng.
PV:- Đã có
nơi nào áp dụng hình thức xử lý nợ xấu theo cách này hay không và cụ thể thế
nào?
TS Bùi Quang Tín:- Theo tôi biết, giải pháp hoán đổi nợ xấu trên thực tế, các TCTD cũng
đã từng thực hiện. Pháp luật cũng không cấm.
Tuy nhiên, rất ít ngân hàng sẵn sàng đứng ra mua lại nợ xấu của các
doanh nghiệp vì nguy hiểm lớn, rủi ro cao.
PV:- Về phía
doanh nghiệp, khi nợ xấu thành một phần góp vốn cho chính doanh nghiệp đó,
năng lực của doanh nghiệp liệu có được cải thiện lên không và vì sao? Nếu
vậy, việc xử lý nợ xấu này đối với doanh nghiệp có ý nghĩa như thế nào?
TS Bùi Quang Tín:- Điều
đầu tiên tôi thấy là năng lực tài chính của doanh nghiệp đó chắc chắn sẽ được
cải thiện. Tôi lấy ví dụ, doanh nghiệp A có món nợ khoảng 100 tỷ tại ngân
hàng B. Nếu thực hiện hoán đổi nợ xấu thành vốn góp nghĩa là khoản nợ 100 tỷ
đó sẽ trở thành vốn góp của doanh nghiệp đó. Trên bảng cân đối kế toán doanh
nghiệp sẽ được xóa nợ, không phải trả lại số tiền đó nữa.
Việc này vừa giúp doanh nghiệp giảm bớt được gánh nặng mang nợ vừa có
cơ hội huy động thêm vốn để phục hồi kinh doanh, hoặc đầu tư kinh doanh mới.
Tuy nhiên, việc góp vốn chỉ thật sự có nghĩa với doanh nghiệp và ngân
hàng trong trường hợp những cải thiện về vốn phải đi cùng với năng lực quản
trị của doanh nghiệp đó.
PV:- Về phía
ngân hàng, thay vì ôm đống nợ xấu, ngân hàng nắm giữ một lượng cổ phần nhất định
ở một doanh nghiệp không có khả năng xử lý nợ xấu. Điều này phải được hiểu
như thế nào, thưa ông? Thưa ông, liệu ngân hàng thương mại có đồng tình với
thông tư này hay không và nếu đồng tình thì lý do vì sao?
TS Bùi Quang Tín:- Nếu nhìn nhận từ những gì đã phân tích thì rất khó thuyết phục được các
NHTM đi theo phương án này.
Hơn ai hết, ngân hàng chính là người hiểu rõ nhất về dòng tiền của
doanh nghiệp đó ra sao, năng lực quản trị của doanh nghiệp đó thế nào, khó
khăn của doanh nghiệp đó đến từ đâu... vì thế, để thuyết phục được các ngân
hàng ủng hộ chủ trương này của Ngân hàng nhà nước là không đơn giản.
PV:- Đặt
trong bối cảnh chung khi Nhà nước đang gấp rút tiến hành cổ phần hóa các
doanh nghiệp nhà nước, liệu có thể dự đoán, việc ngân hàng được giữ một lượng
cổ phần nhất định trong các doanh nghiệp được coi như một cơ hội đầu tư với
các ngân hàng thương mại hay không?
TS Bùi Quang Tín:- Chắc chắn là như vậy. Việc làm sạch nợ xấu cho nhóm doanh nghiệp nhà
nước chính là một phần có thể nhìn thấy trong chủ trương này. Vì DNNN thường
có những ưu đãi vượt bậc so với những doanh nghiệp tư nhân. Cụ thể là những
chính sách ưu đãi thuế, sự ưu đãi về chính sách và đặc biệt là những ưu đãi
trong sử dụng đất. Từ những lợi thế đó mà các NHTM mới thích mua cổ phần của
các DNNN.
Tuy nhiên, mặt trái của các DNNN là tính minh bạch, tính linh hoạt
trong kinh doanh, trình độ quản trị điều hành còn hạn chế, yếu kém vì vậy,
các TCTD cần phải tính táo, cân nhắc kỹ lưỡng giữa cái được và cái mất.
PV:- Nếu vậy
thì những nguy cơ làm thất thoát tài sản Nhà nước trong trường hợp này cần
phải được đặt ra như thế nào?
TS Bùi Quang Tín:- Theo
tôi, khi đưa ra dự thảo thông tư này vấn đề quan trọng nhất là DNNN và ngân
hàng phải công khai, minh bạch nợ xấu trước khi thực hiện chuyển nợ xấu thành
vốn góp cổ phần. Nếu không làm được như vậy, nguy cơ thất thoát mất vốn, mất
tài sản của nhà nước là rất lớn.
Vì khi một món nợ đã gần như không còn khả năng chi trả, bỗng nhiên có
một ngân hàng nhảy vào mua, nếu đứng trên cương vị của doanh nghiệp nợ được
mua với giá nào cũng bán, còn phía ngân hàng trả với giá nào cũng xong. Nợ
xấu cũng vậy, nợ đã rất xấu có chuyển thành bao nhiêu cổ phiếu cũng lợi. Đó
là mối quan hệ lợi ích.
Tôi lấy ví dụ, một doanh nghiệp có 100 tỷ nợ xấu đang thuộc nhóm 5.
Nếu ngân hàng muốn chuyển 50 tỷ thành vốn góp, 50 tỷ chuyển sang quỹ trích
lập dự phòng và ngân hàng sẽ chịu lỗ.
Nhưng trong 50 tỷ chuyển thành vốn góp cổ phần đó, DNNN phải công bố
công khai phần nào là nợ từ tài sản thế chấp, phần nào là nợ từ vốn lưu động
(tồn kho), phần nào là nợ doanh nghiệp đã trả được một phần.
Để tránh tình trạng giá trị tiền mặt các DNNN đang có từ các phần nợ
trên là 80 tỷ, nhưng lại chỉ được chuyển thành 50 tỷ vốn góp. Như vậy là nhà
nước bỗng nhiên bị mất 30 tỷ.
Vì vậy, trước khi thực hiện chuyển đổi nợ xấu thành vốn góp các cơ
quan chức năng liên quan phải thực hiện định giá lại toàn bộ tài sản của
doanh nghiệp, bao gồm cả tài sản vô hình và hữu hình... nếu việc này không
được thực hiện nghiêm túc, công khai, minh bạch khả năng thất thoát là nhìn
thấy trước.
PV:- Đứng ở góc độ chuyên gia, ông có đồng tình với đề xuất hoán đổi
cổ phần trong dự thảo thông tư nói trên hay không?
TS Bùi Quang Tín:- Cũng theo thông lệ quốc tế, tôi coi đó là một giải pháp trong xử lý nợ
xấu. Vấn đề tôi quan tâm là cách làm thế nào mới quan trọng.
Khi đã biến một khoản nợ thành một nguồn vốn góp thì rất nhiều vấn đề
liên quan cần được xử lý.
Một là, vấn đề định giá tài sản của doanh nghiệp được thực hiện
như thế nào?; hai, quyền lợi của các bên được quy định ra sao?; ba là,
khi chuyển nợ xấu thành vốn góp ai sẽ là đơn vị giám sát? Quy định cụ thể thế
nào?...
Cần phải có văn bản hướng dẫn rất chi tiết mới có thể thực hiện được.
PV:- Theo
ông, để xử lý nợ xấu và làm sạch hệ thống ngân hàng, cách làm từ trước tới
nay của chúng ta có phù hợp hay không? Xin ông phân tích cụ thể.
TS Bùi Quang Tín:- Hiện
nay tôi được biết có rất nhiều ý kiến đang tranh luận về đề xuất dùng ngân
sách để xử lý nợ xấu. Cá nhân tôi, tôi không ủng hộ giải pháp này vì tôi nhìn
thấy trước kết quả của nó cũng sẽ không khác những giải pháp trước đó đã
đưa ra.
Tôi ví dụ việc thành lập VAMC và tung cho họ 2.000 tỷ để thực
hiện mua bán nợ xấu. Nhưng như bạn thấy, đến cả lãnh đạo cao nhất của VAMC
cũng đã phát biểu rồi: "có cho thêm tiền tôi cũng không làm được".
Ở đây rõ ràng là có vướng mắc trong cách thức thực hiện mà theo tôi
nút thắt lớn nhất chính là về mặt cơ chế pháp lý.
Tôi cho rằng, chỉ cần tháo gỡ được các cơ chế có liên quan
tới xử lý tài sản đảm bảo là BĐS cũng như đẩy mạnh các giải pháp thúc đẩy
phát triển cho thị trường BĐS được thông thoáng, nợ xấu sẽ tự giảm theo.
PV:- Xin cảm
ơn ông!
(Theo
Đất Việt) Hoài An
|
Thứ Sáu, 7 tháng 10, 2016
Đăng ký:
Đăng Nhận xét (Atom)
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét