Thứ Ba, 25 tháng 12, 2012

12:08

Bến đò "ma ám"


(Dân Việt) - 7 cái chết liên tiếp trong vòng 15 năm với những lời đồn thổi ma mị khiến bến đò Trằm Mé càng "gánh" thêm những điều rùng rợn đến khó tin.


Dù biết những câu chuyện kể của người nữ phu đò mang đậm chất hoang đường nhưng không ít người ở cái thôn nghèo vốn đỗi rất bình yên đó vẫn cứ thích nghe như kiểu người sợ ma lại thích nghe kể chuyện ma. Tuy nhiên, những thông tin đồn thổi không có căn cứ này cần phải được ngăn chặn kịp thời để tránh gây tâm lý hoang mang cho những người thiếu hiểu biết, chẳng mấy khi ra khỏi lũy tre làng.
"Chị không muốn kể thật mà, đừng ép chị mà tội. Rùng rợn lắm, khó tin lắm, đang ở bên này sông thì nghe tiếng gọi "Đò ơi, đò ơi" lanh lảnh vang lên. Đánh đò sang thì không có ai, chỉ thấy bãi sông vắng lặng” - chị Nguyễn Thị Liên (54 tuổi) kể cho chúng tôi về những điều mà chị từng trải ở bến đò "ma" Trằm Mé (thôn Trằm Mé, xã Sơn Trạch, huyện Bố Trạch, Quảng Bình).

Chị Trần Thị Liên, nữ phu đò duy nhất ở bến Trằm Mé
Túng quá hóa liều
7 cái chết liên tiếp trong vòng 15 năm với những lời đồn thổi ma mị khiến bến đò Trằm Mé càng "gánh" thêm những điều rùng rợn đến khó tin. Đàn ông thì sợ vãi cả hồn, chẳng ai dại mà tự nộp mạng cho "thần chết". Bến đò vắng hoe, cuộc sống người dân thực sự đảo lộn và khó khăn. Học sinh đua nhau bỏ học vì bến đò không người chèo.
Chính quyền thôn bằng mọi cách vừa vận động, khuyến khích, vừa tăng mức trợ cấp cao ngất trời với những ưu đãi rất hậu nhưng kết quả thu về vẫn là con số không tròn trĩnh. Hàng chục, hàng trăm lá đơn được chuyển lên xã. Xã "bó tay" trình bày lên huyện. Huyện bất lực bảo từ từ rồi tính, trong khi người dân thì hoang mang không biết trông cậy vào ai.
Khi đã cố gắng làm đủ mọi cách vẫn không giải quyết được thì có trong mơ ông trưởng thôn cũng chẳng tin lại có người đến tận nhà xin ký hợp đồng chèo đò. Bất ngờ hơn đó lại là một người phụ nữ. Chị tên Nguyễn Thị Liên, có chồng cùng 7 đứa con nheo nhóc đang tuổi ăn, tuổi học. Gia cảnh cũng thuộc hạng nghèo nhất thôn.
Tháng 10.2010, hợp đồng chèo đò của chính quyền thôn và chị Liên đã được ký kết. Người phụ nữ có nước da ngăm đen, mắt sáng, nụ cười hiền hậu, uyển chuyển bẻ chèo rẽ nước, bắt đầu những ngày "đối mặt với thần chết" ở bến đò "ma".
Nói về nguyên nhân ký hợp đồng chèo đò, chị Liên tâm sự: "Gia cảnh tui quá nghèo, 9 miệng ăn trông chờ vào 3 sào lúa, đụng vào cái gì cũng túng thiếu. Không chết khát thì cũng chết đói, cùng đường nên vợ chồng tui đành nhắm mắt đưa chân". Chị bảo, nhiều đêm nằm ngủ, 2 vợ chồng gác tay lên trán suy tư, con cái đông không đi học thì không có tương lai, rồi đời cũng khổ như ba mẹ. Khi cho đứa con thứ 2 đi xuất khẩu lao động tận Malaysia, chị đã phải đi vay 16 triệu đồng. Ở bên đó, con chị cũng đói, khổ nhưng chưa thể về nước được vì không có tiền, trong khi lãi tiền vay ở nhà ngày mỗi tăng lên.
Chiêm bao vì ám ảnh quá khứ
Trao đổi với chúng tôi, chị Liên cũng thừa nhận: “Tui hay chiêm bao thấy các cô du kích có thể do nghe quá nhiều những lời đồn thổi ma mị của mọi người. Thêm vào đó, những ký ức hồi nhỏ khi chứng kiến bộ đội ta hy sinh ở bến sông này vẫn còn ám ảnh, tác động vào thần kinh khiến tui hay mơ sảng. Cuộc sống quá khó khăn nên tui cũng chưa có điều kiện đi bệnh viện khám được. Nếu khúc sông này có hóa chất độc hại thực thì tui cũng chẳng dám tiếp tục thí mạng mình”.
Những câu chuyện "toát mồ hôi hột"
Ngồi với chúng tôi tại bến sông Trằm Mé, chị Liên kể: "Những buổi đầu cũng trôi qua nhẹ nhàng và bình yên lắm. Từ tháng 5 trở đi, không hiểu sao cứ tầm 12 giờ trưa, khi tui nghỉ ngơi tại cái chòi mà chồng tui dựng ở mép sông để tránh nắng, trú mưa thì nghe tiếng người con gái gọi đò vang vọng: "Đò ơi, đò ơi".
Thế nhưng ngoảnh đi ngoảnh lại thì không thấy ai cả. Rồi có khi tiếng người con gái đó lại hát hò, cười khóc vang cả khúc sông. Có hôm, trời nắng quá đang thiu thiu chợp mắt trong chòi, tui chiêm bao thấy 3, 4 cô du kích nói: "Chị ơi, tụi em đói quá, cho tụi em xin 12 nắm cơm với 1 nắm muối chị nhé".
Giật mình tỉnh giấc, mồ hôi toát ra, tui nghĩ chỉ là nằm mơ. 3 ngày sau, trong giấc mơ trưa, tui lại thấy mấy cô du kích đến xin cơm. Từ đó, cứ vào ngày rằm và mồng 1 hằng tháng, tui thắp hương và thả xuống sông 12 nắm cơm và 1 nắm muối. Những giấc mơ lạ cứ thưa dần rồi hết hẳn. Có điều, từ lúc chèo đò, tui hay bị đau đầu, xây xẩm mặt mày, người mệt mỏi lạ thường và mắt cứ mờ dần".

Bà Sự không tin chồng mình chết vì bệnh thấp khớp
Cũng theo lời chị Liên thì nhiều lúc khách bên kia sông gọi đò, chị xuôi chèo đưa đò ra giữa dòng thì như có ai níu lại rất nặng, chèo mãi đò cũng không đi. Chị lầm bầm khấn: "Thôi, đừng đùa chị nữa, cho chị đi kẻo tội. Khách đang chờ nơi tề".
Dứt lời, chiếc đò nhẹ như bưng, lao vùn vụt qua bên kia sông. "Bến đò này lúc xưa gọi là bến phà B. Mấy hang đá trong động là nơi trú ngụ của bộ đội và du kích hỏa tuyến. Ban ngày bộ đội ta lánh trong hang đá, ban đêm mới ra lắp cầu phao thông xe để vận chuyển lương thực và đưa quân vào tuyến đường mòn Hồ Chí Minh. Giặc biết, chúng bắn phá dữ dằn lắm, máu nhuộm đỏ cả bến đò này. Lúc ấy chị mới 12, 13 tuổi thôi nhưng đều được nhìn tận mắt" - chị Liên cho biết.
Giải mã lời đồn
Không tin vào sự lý giải đậm chất hoang đường của người nữ phu đò mê tín, chúng tôi tìm gặp ông Bí thư chi bộ thôn Trần Xuân Tền để nhờ ông dẫn đi thăm những gia đình xấu số. Bà Trần Thị Hồng nói về cái chết của chồng mình là ông Nguyễn Văn Linh: “Ông nhà tui bị bệnh ung thư dạ dày rồi mất. Tuy nhiên lúc sức khỏe ổng quá yếu, gia đình tui mới đem đi khám. Khi biết sự thể thì mọi chuyện đã muộn rồi chú ạ!”. Cái chết của ông Nguyễn Văn Trương thì được mẹ là bà Nguyễn Thị Đại (80 tuổi) lý giải: “Thằng Trương bị sốt xuất huyết rồi chết chứ có ma quỷ nào bắt”.
"Phá thế chết chóc" ở bến đò "ma ám"
Gia cảnh cùng quẫn, vợ chồng chị Liên đành liều mình nhận làm phu đò cho thôn. Nghe quá nhiều lời đồn thổi ma quái về bến đò Trằm Mé, vợ chồng chị cũng rất hoang mang. Trước cái chết liên tiếp của 7 phu chèo đò, nếu để chồng nhận chèo thì chẳng khác nào đưa ổng vào chỗ chết. Thế là chị đảm nhận việc đưa đò để "phá thế chết chóc" ở "bến đò ma ám” ấy.
Cái chết của ông Võ Viết Đức cũng được truy rõ nguyên nhân. “Ông nhà tui có tiền sử bệnh tai biến mạch máu não, ông ấy chóng mặt, nôn ói là chuyện hằng ngày. Nhiều lúc tui khuyên nếu sức khỏe yếu thì nghỉ chèo đi nhưng ông ấy vẫn cố chấp. Vì huyết áp lên cao quá, không có ai phát hiện nên ông chết ngay trên đò” - bà Nguyễn Thị Lý, vợ ông Đức, cho hay.
Ông Nguyễn Văn Chấp chết vì bệnh ung thư gan, đã ủ bệnh từ rất lâu trước khi nhận làm phu đò. Ông Trương Văn Đại thì bị căn bệnh khớp. Vợ ông - bà Nguyễn Thị Sự - cho biết trước khi mất, đầu gối ông Đại sưng vù. Tuy nhiên, người đàn bà mê tín này vẫn tin rằng chồng mình bị “ma bắt” vì "bệnh khớp không thể làm chết một người đàn ông khỏe mạnh".
Chỉ có cái chết của ông Nguyễn Văn Vui và Nguyễn Văn Đạo thì chưa rõ nguyên nhân nên những người rỗi việc trong làng mới thêu dệt nên những câu chuyện ma quỷ để tán gẫu với nhau lúc trà dư tửu hậu. Ông Trần Xuân Tền khẳng định: “Cái chết của những phu đò trong thôn đều do mắc những căn bệnh cụ thể. Chỉ vì trước khi nhận đưa đò, họ chưa phát hiện bệnh hoặc bệnh chưa đến kỳ nguy hiểm. Đến khi làm nghề đưa đò vất vả thì bệnh mới nặng thêm rồi mất. Bà con thiếu hiểu biết nên cứ đồn thổi, chứ ma quỷ nào xuất hiện giữa ban ngày”.
Ông Tền cho biết thêm, những năm 1966 - 1968, bến đò Trằm Mé là nơi bộ đội ta lắp cầu phao thông xe, vận chuyển lương thực, vũ khí, đạn dược qua đường Hồ Chí Minh sang Lào nên bị Mỹ - Ngụy thả bom, bắn phá rất nhiều. Chúng còn thả hóa chất để đầu độc nguồn nước.
Có thể đến giờ, hóa chất chưa tan hết, trời nắng bốc lên khiến những người chèo đò vốn sẵn bệnh nên sức yếu không thể kháng được dẫn đến tử vong. Chúng tôi cũng nhận thấy lời nói của ông bí thư chi bộ thôn thực sự có cơ sở. Vì mấy chục năm qua, không có người dân nào ở thôn Trằm Mé bắt được con cá, con tôm ở khúc sông bị nhiễm hóa chất này. Chuyện chị Liên khi chèo đò hay bị choáng đầu, hoa mắt rất có thể do hơi độc của nước sông bốc lên.
Từ câu chuyện hoang đường về "bến đò ma ám", chúng tôi nhận thấy tận trong đáy lòng của người dân Trằm Mé đang khao khát hơn bao giờ hết có một cây cầu qua sông để thuận lợi cho việc thông thương, cũng như đảm bảo an toàn cho học sinh đến trường vào mùa mưa lũ. Cây cầu đó cũng sẽ dập tắt những lời đồn thổi hoang đường đã sống cùng thôn nghèo này suốt 15 năm qua.
Theo Dòng Đời

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét