Thứ Năm, 24 tháng 2, 2022

Trao đổi, phản biện

Lạ lùng sách Tiếng Việt 1 không dạy chữ 'P', hiệu trưởng viết tâm thư cho bộ trưởng

Cập nhật lúc 15:59               

Ngày 24-2, chia sẻ với Tuổi Trẻ Online, nhà giáo Đào Quốc Vịnh xác nhận ông viết thư ngỏ cho bộ trưởng Bộ GD-ĐT phản ánh về việc không dạy chữ ‘P’ trong sách Tiếng Việt 1 của bộ 'Kết nối tri thức với cuộc sống'.


Sách Tiếng Việt 1 bộ "Kết nối tri thức với cuộc sống" do NXB Giáo Dục Việt Nam biên soạn đã được Bộ GD-ĐT phê duyệt không dạy chữ 'P' đứng độc lập, mà chỉ dạy chữ 'Ph' - Ảnh: VĨNH HÀ

Trước đây vài ngày, nhà giáo Đào Quốc Vịnh, hiệu trưởng Trường tiểu học Tô Hiến Thành (Hà Nội), đã viết một thư ngỏ gửi đích danh Bộ trưởng Bộ GD-ĐT Nguyễn Kim Sơn. Trong thư phản ánh sách Tiếng Việt 1 bộ "Kết nối tri thức với cuộc sống" không dạy chữ "P" độc lập. 

Sau khi có ý kiến trên mạng xã hội về việc này, một chủ biên của bộ sách giải thích: Sách Tiếng Việt 1 bộ "Kết nối tri thức với cuộc sống" đã dạy chữ ‘P’ khi nó kết hợp với ‘H’ thành chữ ‘PH’ (phờ). Sở dĩ tác giả không đưa chữ ‘P’ độc lập vào sách vì rất ít từ tiếng Việt có chữ ‘P’ đứng trước các nguyên âm, nếu có thì là ngoại lai.

Bức xúc với sự giải thích này, nhà giáo Đào Quốc Vịnh viết thư cho bộ trưởng Bộ GD-ĐT.

Trong thư ông cho rằng sách giáo khoa cho học sinh phổ thông, nhất là ở cấp tiểu học, phải có tính phổ quát tới 54 dân tộc trong đại gia đình dân tộc Việt Nam, chứ không phải chỉ dạy riêng cho học sinh người Kinh. 

Sai sót này là không thể chấp nhận được vì nó ảnh hưởng tới việc học tập của con em đồng bào các dân tộc, dễ bị các thế lực thù địch lợi dụng, kích động làm ảnh hưởng tới sự đoàn kết của các dân tộc trong đại gia đình dân tộc Việt Nam.

Trao đổi với Tuổi Trẻ, nhà giáo Đào Quốc Vịnh cho rằng rất nhiều từ chỉ địa danh, tên người của đồng bào dân tộc thiểu số có chữ P đứng trước nguyên âm. Nếu sách không dạy chữ ‘P’ thì trẻ em các vùng này sẽ đọc như thế nào về tên người, địa danh ở nơi mình sinh sống?

Để dẫn chứng, nhà giáo Đào Quốc Vịnh liệt kê hàng chục từ đang là tên địa danh, tên người có chữ ‘P’. Ông cũng cho rằng trong nhiều lĩnh vực dịch thuật, chữ ‘P’ sử dụng rất nhiều. Ví dụ như tên các loại thuốc có chữ ‘P’ đứng trước các nguyên âm. Hay trong đời sống vẫn có những từ có ‘P’ được sử dụng trong giao tiếp. Ví dụ như trẻ con chơi bắn súng sẽ dùng từ ‘pằng, pằng’…

"29 chữ cái, trong đó có chữ ‘P’ được Nhà nước quy định trong Hiến pháp, từ thời Gia Long đã quy định thế rồi, không được bớt. Còn Bộ GD-ĐT chỉ quy định mẫu chữ thôi. Nếu bỏ đi là thiếu hụt ghê gớm", ông Vịnh nêu quan điểm.

Trong thư ngỏ, nhà giáo Đào Quốc Vịnh đề nghị các cơ quan hữu trách cần vào cuộc yêu cầu NXB Giáo Dục Việt Nam, cụ thể là tổng biên tập bộ sách "Kết nối tri thức với cuộc sống" phải bổ sung ngay chữ ‘P’, đưa nó trở lại mục lục của cuốn sách, ngang bằng với các chữ cái khác trong bộ chữ cái tiếng Việt đã được pháp luật quy định.

Tuổi Trẻ Online đã liên hệ với NXB Giáo Dục Việt Nam về sự việc này nhưng chưa có phản hồi. Theo nhà giáo Đào Quốc Vịnh, tới thời điểm này ông cũng không nhận được hồi âm nào từ phía Bộ GD-ĐT.

Theo nguồn tin của Tuổi Trẻ Online, NXB Giáo Dục Việt Nam đã báo cáo lãnh đạo Bộ GD-ĐT về sự việc này và cũng đang chờ ý kiến chỉ đạo của bộ.

(Theo Tuổi trẻ)  VĨNH HÀ

 

Ý kiến của Chủ biên sau khi báo chí lên tiếng:

Chủ biên SGK Tiếng Việt 1 lên tiếng về việc 'bỏ chữ P'

Sau khi Báo VietNamNet có bài "Sách giáo khoa không dạy chữ 'P', Hiệu trưởng viết tâm thư cho Bộ trưởng", PGS.TS Bùi Mạnh Hùng, Chủ biên SGK Tiếng Việt 1 bộ 'Kết nối tri thức với cuộc sống' đã có phản hồi.

Ông Bùi Mạnh Hùng khẳng định, bảng chữ cái trong SGK Tiếng Việt 1, bộ Kết nối có đầy đủ 29 chữ cái theo quy định của Bộ Giáo dục và Đào tạo (trang 12, tập một).

Đây là quy định “cứng”, không có bất kì bộ SGK nào dám thay đổi và không có lí do gì để thay đổi. Ở nhiều bài học trong bộ sách này, HS được học và luyện viết chữ P qua ngữ liệu là những từ như đèn pin, cặp da, cá mập, lốp xe, tia chớp, bếp, bìm bịp, búp sen,… (trang 78, 118, 120, 124,… tập một).

Ở tập hai, trong các văn bản đọc thì số các từ có chữ P không thể tính hết. Vì vậy, ý kiến cho Tiếng Việt 1, Kết nối không dạy chữ P là hoàn toàn không có cơ sở.


PGS.TS Bùi Mạnh Hùng, Chủ biên sách Tiếng Việt 1 bộ Kết nối tri thức với cuộc sống

Về vấn đề là dạy âm P (pờ) (được ghi bằng chữ P, chữ pê) như thế nào, ông Hùng cho biết trong tiếng Việt, âm P xuất hiện chủ yếu là cuối âm tiết; trong một số trường hợp, xuất hiện đầu âm tiết.

"Trước hết, xin nói về việc dạy âm P cuối âm tiết (hiện tượng phổ biến). Qua loạt bài dạy vần ở tập một như ap, ăp, âp (trang 118); op, ôp, ơp (trang 120); ep, êp, ip, up (trang 124),… và những từ như đã nêu ở trên (cặp da, cá mập, lốp xe, tia chớp, bếp, bìm bịp, búp sen,…) thì có thể thấy rõ, SGK Tiếng Việt 1, bộ Kết nối, có dạy âm P cuối và dạy nhiều.

Còn về việc dạy âm đầu P (pờ), tất cả các bộ sách Tiếng Việt 1 đều phải đạt được mục tiêu: Học xong lớp 1, HS có khả năng đọc được các từ như đèn pin, Sa Pa, Nậm Pì,… Tuy nhiên, các bộ sách có thể có những cách khác nhau.

Cách thứ nhất: Dạy âm đầu P (âm pờ) trong bài dạy âm PH (âm phờ). Trước khi học âm PH, các em được luyện đọc âm P, chứ không học âm P riêng và không có từ ứng dụng riêng cho âm đầu P.

Cách thứ hai: Dạy âm P riêng và đưa những “từ ứng dụng” như pi-a-nô/piano, pa-nô/panô để HS tập đọc và phát triển vốn từ".

Theo ông Hùng, SGK Tiếng Việt 1 của Bộ Giáo dục và Đào tạo (theo chương trình Tiếng Việt năm 2000) đã áp dụng cách thứ nhất và rất quen thuộc với đông đảo giáo viên dạy Tiếng Việt lớp 1 trên cả nước trong 20 năm qua. SGK Tiếng Việt 1, bộ Kết nối, kế thừa cách dạy này. Sau khi làm quen, tập đọc âm P ngay trước khi học âm PH, học sinh được luyện đọc âm đầu P trong một số bài học sau đó, chẳng hạn, khi học vần IN, các em luyện đọc và viết từ đèn pin (trang 78, tập một), luyện đọc từ Sa Pa trong đoạn văn viết về Tây Bắc (trang 105 tập một) và trong bài đọc Ruộng bậc thang ở Sa Pa (trang 154, tập hai).

Lý giải việc nhóm tác giả chọn cách thứ nhất (đồng thời cũng là lựa chọn kế thừa cách dạy của SGK Tiếng Việt 1 năm 2000 của Bộ Giáo dục và Đào tạo), ông Hùng cho biết: Âm P và PH đều được học trong phần Âm, ở khoảng tuần 5 hoặc tuần 6 của lớp 1. Nếu dạy âm P riêng thì cần phải có “từ ứng dụng” để HS tập đọc và phát triển vốn từ. Những từ này chỉ chứa các âm tiết mở (bộ phận vần chỉ có 1 nguyên âm), nghĩa là buộc phải dùng từ như pi-a-nô/piano, pa-nô/panô,….; không thể dùng các từ như Sa Pa, Nậm Pì,… vì 2 lí do: 1) HS chưa được học âm S (trong Sa Pa) và vần ÂM (trong Nậm Pì) và 2) Thông thường, tên riêng không được dùng ở phần dạy phát triển vốn từ. Mới chỉ được học 5 – 6 tuần mà HS phải đọc và hiểu nghĩa của những từ như pi-a-nô/piano, pa-nô/panô,…. là không phù hợp. Chắc hẳn nhiều người sẽ e ngại vì HS lớp 1, mới đến trường mấy tuần, mà phải đọc, viết và hiểu nghĩa của những từ không quen thuộc như vậy.

Tóm lại, Tiếng Việt 1, bộ Kết nối, có dạy chữ P (chữ pê), âm đầu và âm cuối P (pờ) (ghi bằng chữ P). Tất cả đều dạy theo cách quen thuộc với giáo viên dạy tiếng Việt lớp 1 trên cả nước trong nhiều năm qua" - ông Hùng khẳng định.

Ông Hùng cũng nói thêm rằng "Trong tiếng Việt, trong khi âm cuối P được mặc nhiên thừa nhận dựa trên hàng loạt cứ liệu thực tế như các từ đã được nêu trên (cặp da, cá mập, lốp xe, tia chớp, bếp, bìm bịp, búp sen,…) thì nhiều nhà Ngữ âm học hàng đầu, “ông tổ” của ngành Ngữ âm học Việt Nam, không coi tiếng Việt có âm đầu P (xem Đoàn Thiện Thuật, Ngữ âm học tiếng Việt, Đại học Quốc gia Hà Nội, 1999, trang 157 – 158; Hoàng Tuệ và Hoàng Minh (Cao Xuân Hạo), Remarks on the Phonological Structure of Vietnamese, Vietnamese Studies: No 40, p. 76). Như vậy, nếu có coi tiếng Việt có âm đầu P thì đó không phải là việc hiển nhiên và âm đầu P không phải có vị trí “bình đẳng” như các âm đầu khác trong tiếng Việt. Âm này xuất hiện trong các từ vay mượn như: pi-a-nô/piano, pê-đan/pêđan, pa-nô/panô, pê-nê-xi-lin,…, các âm tiết được viết liền hoặc có dấu nối. Ngoài ra, âm đầu P có thể xuất hiện ở một số tên riêng (Sa Pa, Nậm Pì,…).

Trong miêu tả ngữ âm học, tất cả các hiện tượng ngữ âm thuộc từ vay mượn mà chưa Việt hóa (pi-a-nô/piano, pê-nê-xi-lin, pê-đan/pêđan, pa-nô/panô,…), tên riêng (Sa Pa, Nậm Pì,…), cùng với từ tượng thanh, từ cổ,… đều thuộc hiện tượng ngữ âm “ngoại biên”, không được lấy làm ngữ liệu để miêu tả hệ thống âm vị của một ngôn ngữ".

(Theo Vietnamnet) Phương Chi

 

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét