Đạm Ninh Bình lỗ vượt kế hoạch, xin cứu: ''Thương'' nợ công?
Cập
nhật lúc 14:21
(Doanh nghiệp) - Việc
giải cứu một dự án không hiệu quả sẽ là một tiền lệ xấu. Khi đã có tiền lệ
ấy, liệu Nhà nước có phải giải cứu dây chuyền?
Kêu khó để xin-cho
UBND tỉnh Ninh Bình vừa đề nghị Chính phủ giải cứu Công ty TNHH MTV
Đạm Ninh Bình khi dự án Nhà máy Đạm Ninh Bình vẫn đang lỗ dù đã bước sang năm
hoạt động thứ 4 và chưa biết bao giờ mới ngừng lỗ.
Trước đó, lãnh đạo công ty cho rằng, nguyên nhân thua lỗ của Đạm Ninh
Bình là do sản xuất ure trong nước đã vượt cầu, cộng thêm nguồn cung từ nhập
khẩu giá rẻ, sản xuất nông nghiệp khó khăn khiên nhu cầu phân bón trong nước
giảm...
Cũng theo đại diện Đạm Ninh Bình, việc sản xuất được duy trì ở mức phụ
tải thấp, tồn kho cao, tiêu thụ khó khăn nên dự kiến lỗ sẽ tiếp tục tăng,
đứng trước nguy cơ dừng sản xuất dài hạn do không cân đối được dòng tiền và
ảnh hưởng tới việc làm, thu nhập của người lao động trong công ty.
PGS.TS Phạm Quý Thọ, Khoa Chính sách công, Học viện Chính sách và Phát
triển, chỉ ra rằng, không chỉ dự án Đạm Ninh Bình, mà nhiều dự án kém hiệu
quả khác như Nhà máy sợi Đình Vũ, dự án mở rộng
giai đoạn 2 Nhà máy Gang thép Thái Nguyên... đều có điểm chung, đó
là đều do DNNN đầu tư, mục tiêu đặt ra ban đầu bao giờ cũng
rất hay và đẹp đẽ và chúng đều nhận được
không ít ưu đãi của Nhà nước. Tuy nhiên, sau khi dự án bắt đầu
hay đi vào hoạt động, hàng loạt khó khăn phát sinh và chủ đầu tư phản
ứng bằng cách kêu khó khăn, nếu không được giải cứu thì những công trình này
sẽ trở thành sắt vụn, gây lãng phí, ảnh hưởng đến GDP của địa phương,
không tạo ra công ăn việc làm, người lao động bị thất nghiệp...
"Tuy nhiên, kêu luôn là "bài" của các
nhà làm chính sách địa phương, các chủ đầu tư mỗi khi làm ăn không hiệu quả.
Đó là kiểu xin-cho núp dưới dạng kêu khó, kêu khổ.
Chẳng hạn, trong trường hợp của Đạm Ninh Bình, họ không thể chỉ đổ lỗi
cho khách quan, mà đó còn do nhiều nguyên nhân chủ quan, từ việc quyết định
đầu tư, lựa chọn công nghệ lạc hậu khiến chất lượng sản phẩm kém, giá thành
cao, không cạnh tranh được với sản phẩm tương tự ở trong nước và nhập khẩu
đến quản lý yếu kém...
Thế nhưng, thông thường, khi làm ăn không hiệu quả, người ta không dễ
nhận yếu kém về mình mà bao giờ cũng đổ lỗi cho khách quan trước như yếu tố
thị trường, cạnh tranh... Thế nhưng tại sao khi đầu tư họ không đặt ra vấn đề
đó? Lẽ ra với tình trạng thua lỗ như thế, họ phải trình bày
rõ phương án kinh doanh thế nào rồi mới kêu Nhà nước hỗ trợ", PGS
Thọ nói.
Hơn nữa, theo vị chuyên gia về chính sách công, nếu giải cứu Đạm Ninh
Bình, còn bao nhiêu dự án khác cũng rơi vào trường hợp tương tự thì sao,
chẳng lẽ Nhà nước phải giải cứu cả dây chuyền? Nó sẽ tạo ra một tiền lệ xấu,
đặc biệt, nếu tiếp tục được ưu ái, họ sẽ tiếp tục lấn tới, được cái này lại
đòi cái khác, khi ấy gánh nặng nợ công sẽ ngày càng lớn, nền kinh tế phải
chịu thiệt hại.
Bởi thế, ông cho rằng, đã đến lúc Nhà nước không thể dễ dãi với
kiểu đầu tư như vậy, phải thay đổi tư duy, quyết liệt
trong việc làm chứ không chỉ trong lời nói. Thủ tướng Nguyễn Xuân Phúc đã chỉ
đạo rõ, cơ chế hỗ trợ của Nhà nước phải thay đổi theo hướng chấm dứt cơ chế
xin-cho, không bao cấp và hỗ trợ cho sự yếu kém.
Thay đổi tư duy, áp đặt lối chơi mới
Nhìn lại hàng loạt dự án của DNNN, trong đó phần nhiều là các dự án
công nghiệp quan trọng (đạm, thép, sợi, lọc hóa dầu, xăng sinh học...), hễ
thua lỗ là xin giải cứu, PGS.TS Phạm Quý Thọ nhận định, đây là hậu quả của
việc đầu tư công kém hiệu quả của thời gian trước để lại, đến bây giờ mới bộc
lộ hết. Chúng khiến cho gánh nặng nợ công của Việt Nam không ngừng tăng lên.
Phương án xử lý các dự án này như thế nào - khắc phục, cứu, cho phá
sản hay bán, mời gọi đầu tư, M&A..., theo PGS Thọ, phải cân nhắc. Tuy
nhiên, ông nhắc lại quan điểm của người đứng đầu Chính phủ: không giải cứu
các doanh nghiệp làm ăn không hiệu quả.
"Đây là một chủ trương lớn của Chính phủ và chủ trương này
phù hợp với tình trạng kinh tế hiện nay của Việt Nam. Chúng ta lấy gì để
cứu? Nếu cứu thì nguồn lực ở đâu? Nếu lại lấy tiền trong ngân sách hay đầu tư
phát triển thì nó gần như đã cạn kiệt, không có nguồn nào để tiếp tục cứu nữa.
Với tình trạng làm ăn kém như thế, dù có cứu cũng không nhìn
thấy cái đích phát triển. Cho nên, cứu các dự án này là điều không hợp
lý và không hiệu quả về mặt kinh tế.
Mặt khác, tình hình kinh tế trong nước và quốc tế đang rất khó
khăn và hậu quả của cuộc khủng hoảng tài chính vẫn còn nặng nề, dẫu có cứu
thì các doanh nghiệp này cũng không thể thắng trong cạnh tranh được
và không mang lại lợi ích cho quốc gia", PGS.TS Phạm Quý Thọ phân tích.
Trong trường hợp không cứu các doanh nghiệp này, theo PGS Thọ, sẽ
có một số nhóm lợi ích bị "tổn hại". Khi đó người ta sẽ phản
ứng bằng cách kêu khó khăn, nhưng tất cả những cái đó đều là bao che cho sự
yếu kém, không mạnh dạn đi lên.
Ông khẳng định: "Phải tạo ra một nhận thức, một tư duy
mới: đừng ngại phá sản những doanh nghiệp yếu kém, làm ăn không
hiệu quả, không thể cứ "bỏ thì thương, vương thì tội". Đó chính
là bài học đối với những doanh nghiệp lớn, đặc biệt là những
DNNN, đồng thời tạo nên một cách làm ăn mới, có tính chất nhắc nhở
rằng khi đầu tư công phải chú ý đến nhiều vấn đề khác chứ không phải chỉ đơn
giản có một số vốn lớn, trong một ngành quan trọng...
Còn rất nhiều thứ Việt Nam phải hy sinh, nếu cứ
để mớ bùng nhùng đó không cắt đi dứt điểm nó sẽ tạo
thành khối ung nhọt lớn cho nền kinh tế không biết đến bao giờ mới
khắc phục được.
Điều này rất quan trọng, khi thay đổi tư duy, cách suy nghĩ mới
ngăn cản được các lợi ích nhóm chi phối chính sách, đặc biệt là chính sách
kinh tế. Đây là thói quen bao cấp đã tồn tại từ rất lâu, chỉ mong
chờ Nhà nước cấp cái nọ cái kia, xin thật nhiều để ăn chia. Hậu quả của nó
chính là dự án "trùm mền" đề cập ở trên".
Vị chuyên gia đề xuất, đã đến lúc cần áp đặt một
lối chơi mới: áp tiêu chí ngay từ đầu, các mục tiêu phải được cam kết đi
kèm với chế tài nghiêm khắc...
"Hãy để các doanh nghiệp tự cứu mình trước, nếu
không cứu được thì thay lãnh đạo doanh nghiệp, kêu gọi các nhà đầu tư khác,
thậm chí tư nhân hóa. Đầu tư, kinh doanh có lúc lời lúc lỗ và phải chấp
nhận".
Một vấn đề quan trọng được PGS.TS Phạm Quý Thọ lưu ý, đó
là truy trách nhiệm: những thất thoát này do ai, người nào chịu
trách nhiệm?
"Các chủ đầu tư và những người ra quyết định đầu tư cũng phải liên
đới chịu trách nhiệm. Có thể những người ra quyết định đầu tư bị ảnh hưởng
bởi tư duy bao cấp, tư duy xin-cho nhưng cuối cùng vẫn phải có người
chịu trách nhiệm trong vấn đề này. Nếu như không có người chịu trách nhiệm khó
có thể thúc đẩy đầu tư công hiệu quả cũng như tháo gỡ khó khăn của nền
kinh tế hiện nay", ông Thọ nhấn mạnh.
(Theo
Đất Việt) Thành
Luân
|
Thứ Sáu, 16 tháng 9, 2016
Đăng ký:
Đăng Nhận xét (Atom)
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét