Nhiệt điện dọc sông Hậu: Tại sao chỉ
chọn Trung Quốc?
Cập nhật lúc 07:40
(Quan điểm) - Các nhà máy nhiệt điện than tập trung ở cửa
sông Hậu là do đâu, vì sao chỉ có công nghệ Trung Quốc ở đó, liệu có một
Formosa nữa không?
Đây là câu hỏi
mà các chuyên gia về môi trường trong hội thảo “Sự tham gia của cộng đồng
trong đánh giá tác động môi trường – từ chính sách đến thực tiễn” tại TP Cần
Thơ ngày 19/9 đã đặt ra trong thực tế có quá nhiều lỗ hổng trong hệ thống
pháp luật cũng như thực thi pháp luật về đánh giá tác động môi trường của mỗi
dự án quan trọng.
Theo PGS.TS Lê
Anh Tuấn – Phó Viện trưởng Viện Nghiên cứu Biến đổi khí hậu (Trường ĐH. Cần
Thơ), báo cáo đánh giá tác động môi trường (ĐTM) hiện nay còn quá sơ sài và
cần phải chỉ ra cũng như lấp đầy những lỗ trống này.
Hiện nay, trên
bản đồ vị trí các dự án năng lượng vùng phía Tây Nam sông Hậu đã dày đặc các
dự án lớn và có ảnh hưởng tới môi trường rất cao như Cụm nhà máy Nhiệt điện
Duyên Hải (Trà Vinh), Cụm trạm điện gió Bạc Liêu (Bạc Liêu), Nhiệt điện Lee&Man,
Nhiệt điện Cần Thơ, Khí điện Cà Mau... nhưng ngay cả lý do vì sao các nhà máy
này đặt ở cửa sông Hậu thì không ai rõ.
PGS.TS Lê Anh
Tuấn lấy ví dụ về các dự án nhiệt điện than đang "mọc lên như nấm sau
mưa" ở ĐBSCL, đặc biệt là ngay cửa sông Hậu để phân tích rõ hơn về những
lỗ hổng của hệ thống quy định và thực hiện báo cáo đánh giá tác động môi
trường.
"Đồng bằng
sông Cửu Long không phải là vùng nguyên liệu than vậy cớ gì đặt nhà máy nhiệt
điện than ở đây mà không phải ở Quảng Ninh? Chưa kể tới các rủi ro trong quá
trình chuyển than từ Quảng Ninh tới vùng DDooBSCL là quá lớn. Vậy lý do
cho các công trình, dự án năng lượng được đặt ở vị trí nào đó mà nó không
phải là vùng nguyên liệu phải được lý giải rất rõ ràng và có tính khoa học
trong báo cáo tác động môi trường của dự án", PGS.TS. Lê Anh Tuấn nhận
định.
Chưa kể, vấn đề
rất đáng quan ngại ở đây là việc trong tương lai, các nhà máy nhiệt điện than
này sẽ phải nhập nguồn than từ nước ngoài (như Trung Quốc, Úc, Indonesia).
Nếu xét về mặt
chiến lược và tầm nhìn phát triển bền vững, tương lai Việt Nam nói chung và
ĐBSCL nói riêng sẽ gặp nguy cơ không đảm bảo an ninh năng lượng do phụ thuộc
nguồn cung nhiên liệu từ nước ngoài.
Kế đến phải nói
tới là công nghệ sử dụng trong hệ thống nhà máy nhiệt điện than tại khu vực
ĐBSCL đều là công nghệ Trung Quốc- vốn là vấn đề nhức nhối lâu nay.
"Mỗi bản
đánh giá tác động môi trường cũng cần phải đề cập tới công nghệ vận hành nhà
máy là của quốc gia nào và vì sao lựa chọn công nghệ đó. Chúng ta cứ nói vì
nó rẻ hơn nhưng điều quan trọng hơn là nó có hiệu quả hay không thì chưa ai
lý giải", PGS.TS Lê Anh Tuấn nói.
Nói đến tính
hiệu quả, PGS.TS. Tuấn nhận xét: "Chúng ta đã có Quy hoạch phát triển
điện quốc gia đến 2015 và tầm nhìn 2025 và các báo cáo ĐTM của các dự án luôn
dựa vào quy hoạch này để chọn kịch bản nhu cầu sử dụng điện toàn quốc tăng
20% /năm.
Nhưng
thực tế thì trong nhiều năm qua, đánh giá chung cho thấy chưa khi nào lượng
điện đáp ứng vượt qua khả năng sản xuất hiện tại cả".
Theo ông Tuấn,
đối với mỗi dự án đều lấy kịch bản các mục tiêu thật cao để xin làm nhà máy
to nhưng kết quả thu được tới đâu, hiệu quả chưa cao... thì lại bao biện các
lý do, nguyên nhân chưa hoàn thành đúng mục tiêu, kế hoạch.
Bản đánh giá
tác động môi trường "làm để cho có"
Tại hội thảo, PGS.TS Lê Anh Tuấn cũng nhận xét về các báo cáo ĐTM của loạt dự án được xây dựng tại ĐBSCL hiện nay.
Khu vực ĐBSCL,
đặc biệt là cửa sông Hậu đã có rất nhiều các nhà máy nhiệt điện và nhà máy
sau cũng như nhà máy trước đều phó mặc việc đánh giá cộng hưởng sự tác động
ra môi trường của hàng loạt dự án như vậy ra môi trường ra sao để đề xuất các
giải pháp môi trường.
Đơn cử như 4
nhà máy nhiệt điện than tại Trà Vinh. Mỗi một nhà máy làm một bản đánh giá
tác động môi trường riêng và đều ghi "tác động không đáng kể".
"Thử đặt
trong bối cảnh 4 ống xả đều đổ ra sông cùng lúc thì còn có thể tác động môi
trường không đáng kể nữa hay không?", PGS.TS Lê Anh Tuấn bức xúc.
Trong khi đó,
các tiêu chí đánh giá, tác động môi trường thiếu các điều tra chi tiết hiện
trạng hệ sinh thái tự nhiên, tài nguyên sinh vật.
Tham vấn cộng
đồng vẫn còn rất mơ hồ đối với những đơn vị lập bản ĐTM. Những đơn vị này còn
chưa hiểu rõ thế nào là cộng đồng và thực hiện tham vấn rất hình thức.
Theo PGS.TS. Lê
Anh Tuấn, cộng đồng không chỉ là làng xã mà nhà máy đó đặt vị trí mà còn là
các cộng đồng dân cư sinh sống xung quanh bị ảnh hưởng bởi chất thải phát
sinh trong quá trình vận hành nhà máy như làng xóm bị ảnh hưởng bởi khói
thải, vùng nông nghiệp bị ảnh hưởng bởi nguồn nước...
"Phải hiểu
cho rõ điều này thì bản ĐTM mới có giá trị", ông Tuấn nhận định.
Cũng tại hội
thảo, PGS.TS. Lê Anh Tuấn đã dẫn một ví dụ về bản ĐTM của Nhà máy Nhiệt điện
Duyên hải 1 và 3 để phân tích cụ thể về thực trạng các bản ĐTM hiện nay chưa
mang bất cứ giá trị nào. Đất Việt xin dẫn nguyên văn.
Báo cáo ĐTM của
Nhà máy Nhiệt điện Duyên hải 1 và 3 thiếu các điều tra chi tiết hiện trạng hệ
sinh thái tự nhiên, tài nguyên sinh vật, đặc biệt nguồn thủy sản tự nhiên và
thủy sản nuôi trồng.
Không có những
giải pháp cụ thể giảm thiểu tác động lên hệ sinh thái rừng ngập mặn ven biển
và nguồn sinh kế của cộng đồng. Không có kế hoạch theo dõi các tác động của
nhà máy lên sinh thái, động thực vật và môi trường cảnh quan.
Toàn bộ hệ sinh
thái rừng ngập mặn ở khu vực nhà máy nhiệt điện bị huỷ diệt và nguồn thuỷ sản
ven bờ biển suy giảm nghiêm trọng. Người dân địa phương cho biết gần như
không còn cá để đánh bắt ở đây.
Các đánh giá ô
nhiễm không khí từ vận hành nhà máy đều dựa vào mô hình (MIKE, Steam-Prof
models of Thermal flow) nhưng không có cơ sở kiểm chứng độ chuẩn xác của mô
hình trong điều kiện địa phương.
Tính toán phát
tán khói bụi lấy từ số liệu gió (độ cao 10 m) trong khi ống khói nhà máy cao
210 m nhưng không có ngoại suy khoa học. Hướng gió trong ĐTM chỉ lấy hướng
chính theo mùa mà không xét đến điều kiện gió đảo chiều, lúc giao mùa hoặc
trường hợp gió chướng.
Báo cáo ĐTM
khẳng định tiếng ồn và độ rung khi vận hành nhà máy là không đáng kể. Thực
tế, tiếng ồn của nhà máy là một dạng “tra tấn” âm ỉ cho công đồng chung quanh.
Đối với rác
thải nguy hại , báo cáo chỉ nói giao cho các Cty Môi trường xử lý nhưng không
nói rõ cách xử lý các rác thải nguy hại.
ĐTM không có
các giải pháp sinh kế hữu hiệu và bền vững cho cộng đồng người dân địa phương.
Tham vấn cộng
đồng của bản đánh giá tác động môi trường quá sơ sài. Chỉ có những người bị
mất đất là được mời lên họp, nhưng chỉ thông báo mức bồi thường và kế hoạch
giải toả.
Hiện nay, người
dân rất bi quan về sinh kế và tương lai bởi không nắm được các thông tin về
nhà máy này khi xây dựng sẽ tác động như thế nào tới sinh kế của họ và giờ
thì "sự đã rồi".
(Theo Đất Việt) Cúc Phương
|
Thứ Tư, 21 tháng 9, 2016
Đăng ký:
Đăng Nhận xét (Atom)
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét