Vụ án trùm Minh
'sâm' và sự bí mật... công khai
Cập nhật lúc 10:00
Câu chuyện tiền thật- chất lượng
ảo, lại tiếp diễn ở một vụ việc khác gây xôn xao xã hội. Sau sự xôn xao về
người lớn, giờ là sự xôn xao cho con trẻ.
I-Xã hội đang ồn
ào về vụ Minh “sâm”- ông trùm giang hồ xã hội đen đất Kinh Bắc vừa bị cơ quan
chức năng bắt vì một loạt hành vi phạm tội. Mối thắt nút của vụ việc hình sự
đầy kịch tính khiến cho dư luận đàm tiếu và không kém phần hài hước là ở chỗ,
ông trùm giang hồ kiêm đại gia, từng được ca ngợi bởi những hoạt động dân sinh
xã hội bề nổi che mắt thiên hạ.
Doanh nghiệp Minh “sâm” từng được công nhận là “tập thể
lao động xuất sắc” của tỉnh Bắc Ninh. Thậm chí Minh “sâm” từng được vinh danh
là 01 trong 1000 doanh nhân tiêu biểu của cả nước trong dịp Đại lễ 1000 năm
Thăng Long- Hà Nội. Mới hay, trong đời sống nhiễu nhương này, có rất nhiều
giá trị đang bị rối loạn, lập lờ trắng đen. Tiền thật mà chất ảo.
Thật ra, cái sự tiền thật- chất ảo không hề hiếm hoi. Dù
đôi khi nó gây bất ngờ.
Tỷ như cái kết quả công bố ngày 20/8 mới đây của Bộ Nội vụ
phối hợp với Ngân hàng Thế giới, khảo sát thử nghiệm mức độ hài lòng của
người dân với dịch vụ hành chính công (DVHCC) tại ba tỉnh: Phú Thọ, Thanh Hóa
và Bình Định. Cuộc khảo sát nằm trong lộ trình tổng thể cải cách hành chính nhà
nước giai đoạn 2011 – 2020. Kết quả đẹp “như mơ” khiến cho cả cơ quan trong
cuộc, và người ngoài cuộc ngỡ như mình… đang mơ: Hơn 80% số người dân hài
lòng với DVHCC.
Cứ với con số này, chả mấy chốc mục tiêu của chương trình
cải cách hành chính- đến 2015 có trên 60%; đến 2020 có trên 80% số người dân
hài lòng về sự phục vụ của cơ quan hành chính, sẽ đạt được.
Cũng không chỉ có 03 tỉnh miền Trung khó khăn nói trên,
cách đây ít lâu, xã hội đã ngỡ ngàng về chỉ số hài lòng của người dân trong
các DVHCC được khảo sát tại t/p HCM, đô thị có trình độ dân trí vào loại khá cao
của cả nước, mà báo chí gọi là “đẹp đến khó tin”.
Đó là giao thông công chính 99%, lao động - thương binh và
xã hội 100%, nông nghiệp và phát triển nông thôn 94,3%, tài nguyên - môi
trường: 90%. Còn ông Nguyễn Văn Quang, Phó Viện trưởng Viện Kinh tế t/p HCM
nói, ông ngỡ ngàng và không tin vào những con số này. Ông Quang không tin.
Người dân t/p HCM không tin, và ngay cả những con số đó, nếu biết nói, có lẽ
cũng phải bảo, chúng tôi còn không dám tin vào chính chúng tôi, nữa là…
Vậy nhưng những con số đó vẫn được trịnh trọng công bố,
lưu trữ trong các tủ hồ sơ của các sở, ngành, như một thứ “bảo hiểm uy tín”…
ảo về DVHCC.
Và nếu như tin vào tất cả các con số đẹp như mơ, đẹp đến
khó tin đó, thì xã hội phải tin đánh giá của Bộ trưởng Nội vụ Nguyễn Thái
Bình, khi ông đưa ra con số cũng rất… thái bình- là chỉ có trên dưới 1% số
cán bộ, công chức chưa hoàn thành nhiệm vụ. Con số quá thái bình đó của ông,
khi đó đã khiến xã hội bất bình. Vì đa số người dân lại không tin.
Cũng như hiện nay, dư luận xã hội không hề tin vào những
kết quả khảo sát mà Bộ Nội vụ vừa tiến hành, cho dù có cả, nói như nhà báo
Đào Tuấn, “yếu tố nước ngoài” đo lường.
Vậy thì vì sao lại có những con số như đánh đố người dân…
hái hoa tình yêu vậy: Tin- không tin; tin- không tin; tin- không tin…?
Đó là bởi Bộ Nội vụ đã tiến hành khảo sát một vấn đề
nghiêm túc nhưng hoàn toàn thiếu hẳn một phương pháp khách quan, khoa học
trong đo lường các chỉ số điều tra xã hội học. Và căn nguyên sâu xa phải
chăng vẫn lại là bệnh thành tích quen thuộc? Nhìn ở tầm khái quát, đã có thể
thấy cách khảo sát có 05 điểm phi khoa học.
-Về quy mô, việc khảo sát chỉ có 03/64 tỉnh, thành phố cả
nước. Trong số 03 tỉnh đó, thực chất mỗi tỉnh chỉ khảo sát được hơn 1500
người. Liệu con số hơn 80% số dân hài lòng các DVHCC, bao gồm ở tất cả lĩnh
vực cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, chứng nhận đăng ký kinh doanh,
giấy phép xây dựng công trình, cấp giấy đăng ký kinh doanh cho doanh nghiệp
của 4500 người đó, có đại diện cho mức độ hài lòng của gần 90 triệu dân cả
nước. Tỷ lệ 80% thực chất có “sai số” rất lớn, nếu mở rộng hơn nữa số đơn vị
tỉnh, t/p được khảo sát?
- Điều bất ngờ nữa, xã hội có quyền nghi ngờ tính xác thực
của con số hơn 80% số dân hài lòng với các DVHCC, nếu biết rằng, những người
được khảo sát lại được trả … thù lao. Như một logic tất yếu, người được khảo
sát sẽ khó mà có thể trả lời thẳng thắn, trung thực
- Kết quả điều tra phụ thuộc rất nhiều vào trình độ những
đối tượng được khảo sát, vào việc họ thường xuyên phải “cọ xát” với các
DVHCC. Trong khi đó, theo báo Lao động, ngày 21/8, những người được khảo sát
lại “có trình độ học vấn thấp, thiếu hiểu biết, nên khi trả lời đã phải…
hỏi lại cán bộ cho rõ”.
- Một điểm đáng chú ý, như ở tỉnh Phú Thọ, 46% số người
được phỏng vấn thừa nhận là người “thân quen” của công chức. Liệu những câu
trả lời có bảo đảm tính khách quan, hay đậm đặc sự… thiên vị?
- Việc đánh giá chất lượng phục vụ của DVHCC hay bất cứ
lĩnh vực nào khác, lẽ đương nhiên phải do một cơ quan, một tổ chức tồn tại
độc lập, khách quan với các ngành, các lĩnh vực. Tuy nhiên, do đặc thù, do
những bất cập về tổ chức, mà cuối cùng, Bộ Nội vụ lại tự đánh giá mình (thông
qua khảo sát công tác này tại các địa phương), tự đặt mình vào tình huống vừa
đá bóngvừa thổi còi. Liệu kết quả này với những sai số lớn như đã phân
tích trên, có đủ sức khiến xã hội tâm phục, khẩu phục?
Thực chất, những tỷ lệ phần trăm vừa công bố vẫn chỉ là
những con số, những tỷ lệ “lạc quan” một cách… bi kịch. Bởi hiện trạng tiền
thật- chất ảo đó không chỉ vô tình đem lại tâm lý tự mãn, “tự sướng” mà thực
chất là bệnh “thành tích” về chất lượng DVHCC. Điều tệ hại hơn, kết quả đó
không bảo đảm cơ sở khoa học để dựa vào đó, Nhà nước xây dựng các chính sách,
định hướng phát triển DVHCC nói riêng, cải cách hành chính nói chung một cách
đúng đắn, chuẩn mực, mà có khi lại làm thiên lệch?
Đó chính là cái mất lớn nhất, sau cái được- những con số
“ảo”
***************
II- Câu chuyện
tiền thật- chất lượng ảo, lại tiếp diễn ở một vụ việc khác gây xôn xao xã
hội. Sau sự xôn xao về người lớn, giờ là sự xôn xao cho con trẻ.
Đó là đề án “Thí điểm mô hình đổi mới cơ bản và toàn diện GD
tiểu học từ lớp 1 đến lớp 3 tại TP.HCM năm học 2014-2015” do sở GD t/p này
vừa đưa ra. Nội dung của đề án là toàn bộ SGK truyền thống được đưa vào sách
điện tử dưới dạng 3D kết hợp với âm thanh, hình ảnh được cài đặt vào máy tính
bảng.
Theo tính toán, đề án này cần đến 4000 tỷ đồng để đầu tư,
trong đó ngân sách nhà nước chỉ chi một phần, còn lại là “xã hội hóa GD”, tức
là các bậc cha mẹ phải mua sắm cho con em mình. Tính ra, sẽ có khoảng 320.000
máy tính bảng phải mua, trị giá mỗi máy tính từ 3- 5 triệu đồng. Có khoảng
451 trường tiểu học tham gia.
Ngay lập tức, hàng trăm bài báo viết, trên mạng cá nhân
phân tích, phản biện về vụ này.
Vì sao và tự lúc nào, ngành GD trở nên “mất thiêng” đến
vậy với xã hội? Và cứ bàn tới chuyện tiền bạc đầu tư cho GD, là XH phản ứng
rất mạnh.
Đi ngược thời gian chút ít, chỉ mới hơn một con giáp thôi,
sẽ hiểu vì sao XH mất niềm tin.
Đó là công cuộc đổi mới GD năm 2000 trước đây, với mục
đích tăng cường thiết bị GD, đổi mới phương pháp dạy và học. Rút cục “hàng
nghìn tỷ đồng ném ra gió”, còn thầy trò vẫn tiếp tục dạy chay- học chay.
Xã hội chưa quên câu chuyện 70000 tỷ đồng cho đổi mới CT,
SGK tung ra trên báo chí năm 2011. Và mới đây, năm 2014, chỉ còn là 34000 tỷ
đồng. Rút cục, người đứng đầu ngành phải công khai xin lỗi, vì chưa tính toán
kỹ con số này, dù “trận đánh lớn” chưa… mở màn.
Vụ việc ở cấp Bộ chưa xong, nay đến cấp sở.
Mới hay, trong thời buổi thế giới phẳng và thông tin đa
chiều rất nhanh này, bất cứ vụ việc nào, mà “sặc mùi tiền”, đặc biệt trong
GD, lĩnh vực dạy người, đòi hỏi sự minh bạch, công khai, đàng hoàng, thì y
rằng vụ việc đó rối tung lên, trở nên phản tác dụng. Giáo dục t/p HCM đang tự
cho mình… “nốc ao” trong con mắt hoài nghi của các bậc cha mẹ.
Không có gì đau khổ hơn là sự “mất thiêng” của ngành làm
thầy thiên hạ.
Trước khi nói đến đề án máy tính bảng, không thể không nói
tới sự thất bại của việc đưa thiết bị GD vào nhà trường trước đây. Cho dù hai
loại thiết bị này khác nhau về nhiều phương diện, khác nhau cả về độ tuổi
thực hiện, lẫn quy mô. Vì sao?
Vì những phát hiện của báo chí những ngày này xung quanh
đề án máy tính bảng, đã có thể dự báo sự thành bại của một chủ trương.
Dư luận XH từng đặt rất nhiều câu hỏi, vì sao chất lượng
thiết bị GD đã có bộ chuẩn, được ngành GD tổ chức đấu thầu hẳn hoi, nhưng khi
đưa về trường, các thiết bị đó đã không thực hiện thành công các thí nghiệm
đơn giản nhất về hóa, lý…v.v… Rút cục chất đống trong kho.
Đơn giản, là một thực tế tồi tệ này. Sau khi các công ty
thắng thầu, thì khi bắt tay vào sản xuất đại trà, họ sẽ thay bằng các vật
liệu khác, giá thành rẻ mạt, không đúng quy chuẩn. Thí nghiệm là một hoạt
động khoa học thực nghiệm, thực hành, mà vật liệu đã bị thay thế, thì thí
nghiệm đó liệu có thể thành công không? Còn con đường vì sao các công ty
ngang nhiên sản xuất những bộ thiết bị GD không đủ chuẩn quy định, thì đó là
một… bí mật.
Một bí mật khác, có những trường tiểu học nổi tiếng hẳn
hoi, rất khốn khổ khi phải tiêu thụ rhiết bị GD cũ tồn kho từ quận đưa xuống.
Không một bậc cha mẹ nào biết, con mình học CT, SGK mới, nhưng thiết bị GD
lại mua toàn… đồ cũ tồn kho từ nhiều năm trước đây, khi chưa cải cách.
“Nhân vật trung tâm” làm đảo điên các câu chuyện về
thiết bị GD, không ai khác, chính là đồng tiền.
Và nay, đến lượt máy tính bảng.
Tiết lộ mới nhất của một kỹ sư tin học, giám đốc một công
ty chuyên về máy tính ở t/p HCM (đăng trên VTC News, ngày 26/8) khiến người
dân “sốc” thật sự. Đó là loại máy tính bảng này được mua với giá chỉ 900.000
đồng nhưng khi bán ra thị trường, thì đội lên từ 3 – 5 triệu đồng/chiếc. Theo
vị này, chất lượng của máy tính bảng loại này rất thấp, dùng liên tục vài giờ
là hết pin. Loại pin này chỉ sạc được khoảng 500 lần là chai pin, mỗi cục pin
thay với giá từ 200 – 300 ngàn đồng.
Báo GDVN, ngày 25/8, đặt câu hỏi ngay title bài: “Ai đứng
sau đề án bắt học sinh mua máy tính bảng...”? Câu hỏi này vẫn chưa có câu trả
lời? Hoặc đó cũng là một bí mật mà báo chí phải tiếp tục điều tra.
Nhưng có nhiều điểm không cần bí mật. Như khi trả lời
phỏng vấn VTC News (ngày 22/8), Phó GS Văn Như Cương đã không chút vòng vo:
Nhập máy TQ giá rẻ (và bán đắt- KD) cho học sinh thì chỉ “béo” nhà
cung cấp thiết bị, còn lợi ích cho học sinh thì chưa thấy đâu!
Và nhiều điểm khác, thuộc về khoa học GD, khoa học về con
người, mà các quốc gia văn minh đi trước nước Việt đã chứng minh sự “lợi bất
cập hại” của việc đưa quá sớm, máy tính bảng vào cho trẻ tiểu học, cũng không
phải là bí mật. Như ở Pháp, Mỹ, Canada, Anh quốc…, đều có những cảnh báo,
khuyến cáo không nên cho trẻ nhỏ sớm tiếp xúc với các đồ điện tử, trong đó có
máy tính.
Bởi sự phát triển của đại não và hệ thần kinh của trẻ dễ
bị tổn thương; trẻ dễ mắc các bệnh tim mạch; mắt, cột sống, hạn chế năng lực
ngôn ngữ… Nghĩa là những gì của tuổi thơ tạo hóa ban cho một cách tự nhiên
thì máy tính sẽ lấy bớt đi một cách tự nhiên, để trả lại những thương tổn âm
thầm của thể chất, tinh thần, tâm lý, tâm hồn non nớt do cơ thể các bé còn
đang giai đoạn lớn.
Không phải vô lý khi trang thông tin điện tử ProCon.org,
được điều hành bởi một tổ chức phi lợi nhuận có trụ sở tại Santa Monica,
California (Mỹ) chuyên nghiên cứu về những vấn đề gây tranh cãi trong xã hội,
vừa đưa ra mang tính tổng kết 15 điều lợi, 17 điều hại của việc sử dụng SGK
điện tử của trẻ (Zing.vn, ngày 24/8). Đáng chú ý, ở 17 điều hại của máy tính
bảng lại là những vấn đề căn cốt GD trẻ tuổi thơ ấu, hạn chế sự hình thành thói
quen, năng lực tư duy tích cực, và sự đầu tư tốn kém về tài chính kéo theo
trong quá trình sử dụng. Đều là những điều xã hội VN cần giải quyết, do
truyền thống “học gạo”, và mức sống phổ biến còn nghèo.
Nhưng điều bất ngờ ở SGK điện tử trên máy tính bảng vừa
được ICT News thông tin, là ứng dụng dạng số hóa SGK chứ không hề có
tương tác gì với người đọc.
Và một điều nữa bí mật nhưng lại cần công khai. Rất nhiều
câu hỏi của các chuyên gia, nhà quản lý GD đặt ra, tại sao đề án lại chọn lứa
tuổi tiểu học, mà không phải lứa tuổi học sinh THCS trở lên?
Đây là một cách tính toán của máu kinh doanh đắc sách.
Thành phố HCM là một đô thị phát triển, các bậc cha mẹ rất có ý thức lo cho
con từ bé thơ. Số trẻ tiểu học lại rất đông- và điều này hứa hẹn là một…
lượng khách hàng lớn. Có gì trẻ thơ cần mà cha mẹ không đáp ứng?
Thế nên theo tính toán của vị kỹ sư IT nói trên, nếu theo
đề án này, có nghĩa một năm có khoảng 300.000 thiết bị biến thành rác thải
công nghiệp. Lợi nhuận thu về cho các đơn vị kinh doanh thiết bị này lên tới
hàng chục tỷ đồng/năm. Một con số tính toán quả là lạc quan. Giống sự
“lạc quan” của DVHCC.
Nhưng là một cách làm GD đầy… bi kịch. Khi chỉ có tiền là
trên hết. Đến đề án dạy trẻ cũng đậm đặc mùi kim tiền.
Thì hậu thế làm sao biết sống vì đất nước, vì cộng đồng
đây?
(Theo TuanVietNam) Kỳ Duyên
|
Thứ Bảy, 30 tháng 8, 2014
Đăng ký:
Đăng Nhận xét (Atom)
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét