Học tiến sĩ để... làm quan
Cập nhật lúc 14:26
Học tiến sĩ vì tấm bằng thay
vì mục đích nghiên cứu khoa học là nguyên nhân sâu xa khiến chất lượng đào
tạo tiến sĩ trở nên đáng báo động trong nhiều năm qua.
Bị coi rẻ chưa từng thấy
Giữa tháng 11/2017, thông tin từ bản dự
thảo đề án có tổng kinh phí 12.000 tỷ đồng, với mục tiêu chính là trong vòng
8 năm (2018-2025) đào tạo, thu hút khoảng 9.000 tiến sĩ cho các trường ĐH
được báo chí đăng tải. Dòng tít ngắn gọn: “Chi 12.000 tỉ đào tạo thêm 9.000 tiến sĩ” nhanh
chóng tạo “bão” trong dư luận, nhất là trên mạng xã hội.
Có “hot” Facebooker còn đưa ra so sánh
hài hước: 12.000 tỉ đồng chi cho 9.000 tiến sĩ, vị chi, mỗi tiến sĩ cần 1,33
tỉ đồng. Như vậy, để có một tiến sĩ người nông dân sẽ tốn 665 con lợn, hay
tương đương 88 con bò.
Chưa bàn tới việc đúng sai, song so
sánh của Facebooker nọ cho thấy một điều chắc chắn là chưa bao giờ hai chữ
“tiến sĩ” bị coi rẻ như vài năm gần đây. Cụm từ “tiến sĩ giấy” dường như
không còn khiến người ta cảm thấy đủ sâu cay để gọi những ông tiến sĩ giả
nữa. Để rồi cộng đồng tìm kiếm những từ ngữ nặng nề hơn.
Nhưng sự “sỗ sàng” ấy không phải không
có lý do. Trong vài năm trở lại đây, người ta đã chứng kiến tình trạng vàng thau
lẫn lộn rất rõ ràng trong đào tạo tiến sĩ ở Việt
Vào khoảng đầu tháng 4/2016, cả xã hội
nóng lên bởi câu chuyện “lò sản xuất tiến sĩ” ở Học viện Khoa học xã hội
(Viện Hàn lâm Khoa học Xã hội Việt Nam) với phép tính “cứ 1 ngày 1 tiếng 15 phút ra một tiến sĩ” mà
tới nay nhiều người vẫn còn nhắc tới.
Thanh tra Bộ GD-ĐT còn phát hiện tại
cùng một thời điểm, tại học viện này có người được giao hướng dẫn tới 44 học
viên cao học, có giáo sư được giao hướng dẫn tới 12 nghiên cứu sinh (NCS), có
phó giáo sư cùng lúc hướng dẫn 9 NCS và có người chỉ có học vị tiến sĩ
cũng hướng dẫn 7 NCS cùng lúc - nhiều gấp 2-3 lần so với quy định.
Nhưng câu chuyện chắc không chỉ có ở
Học viện KHXH Việt
Thống kê mới nhất của Bộ GD-ĐT cho
biết, trong 3 năm 2013-2015, có 3.311 NCS tốt nghiệp, trung bình, mỗi năm 158
cơ sở trên cả nước đào tạo được hơn 1.000 tiến sĩ. Nếu như làm phép tính một
cách cơ học như nhiều dân mạng, cứ mỗi ngày, chúng ta lại có 3 tiến sĩ tốt
nghiệp...
Điều gì đã tạo nên nhu cầu
học vị tiến sĩ lớn như vậy?
Nói tới chất lượng đào tạo tiến sĩ ở
Việt
Vị trưởng Ban Đào tạo ĐHQG Hà Nội nói
rằng, vào thời ông, 10 người thi (tiến sĩ - PV) thì 9 người trượt, việc tuyển
chọn rất khắt khe. Trong khi hiện nay, chỉ tiêu đào tạo tiến sĩ tăng lên ồ
ạt, không có kiểm soát. “Chất lượng đào tạo tiến sĩ
trước hết phụ thuộc vào chất lượng NCS nhưng trong những năm vừa qua việc
tuyển lựa NCS đã bị buông lỏng”.
Khi nhu cầu học tiến sĩ tăng lên, hình
thức đào tạo cũng dần trở nên “thoáng” hơn. Thay vì đào tạo tập trung, việc
đào tạo thạc sĩ rồi tiến sĩ chuyển thành đào tạo kiểu “tại chức”, vừa học vừa
làm. Nhiều cơ sở đào tạo thường tổ chức các lớp học cho NCS, học viên sau đại
học vào các ngày cuối tuần hoặc buổi tối để đáp ứng nhu cầu đa dạng và linh
hoạt của người học.
Những người hướng dẫn vốn trước đây
cũng được lựa chọn khắt khe với một số ít học viên, NCS thì giờ đây cũng
không còn bị yêu cầu quá cao nữa. Chỉ cần là tiến sĩ với một số thời gian
công tác nhất định sẽ được giao hướng dẫn nghiên cứu sinh. Sóng sau xô sóng
trước, những tiến sĩ chất lượng không cao lại tiếp tục đào tạo nên những học
trò của mình.
Đó còn là chưa kể, việc hướng dẫn thạc
sĩ, tiến sĩ còn là điều kiện “cứng” để nhiều người vươn tới danh vị cao hơn:
giáo sư, phó giáo sư.
“Thầy thì tệ nhất là hướng dẫn vì tiền, trò tệ nhất là học vì đáp
ứng những thứ ngoài khoa học” – GS Trần Ngọc Vương, Trường ĐH
Khoa học Xã hội và Nhân văn (ĐHQG Hà Nội) bình luận.
Có cầu ắt có cung. Nhưng câu hỏi đặt ra
là điều gì đã tạo nên nhu cầu lớn đến như vậy đối với học vị tiến sĩ?
PGS TS Phạm Văn Đức, Phó Chủ tịch Viện
Hàn lâm KHXH Việt Nam kiêm Giám đốc Học viện KHXH Việt Nam, nơi được mệnh
danh là “lò sản xuất tiến sĩ”, cũng nhìn nhận rằng nguyên nhân của việc quá
nhiều người đổ xô đi học thạc sĩ, tiến sĩ bắt nguồn sâu xa từ tệ sính bằng
cấp của người Việt. Đặc biệt là khi việc đánh giá, bổ nhiệm cán bộ hiện nay
vẫn chủ yếu dựa vào bằng cấp.
Điều ông Đức nói không chỉ là một “luật ngầm” trong công tác
đánh giá, bổ nhiệm cán bộ mà đã được luật hóa trong các Luật Công chức và Luật Viên
chức cũng như các văn bản liên quan. Cả hai bộ luật này đều
có các điều khoản quy định về những ưu tiên, đặc cách đối với đối
tượng có bằng cấp cao như thạc sĩ và tiến sĩ.
Nhiều địa phương có chính sách trải
thảm đỏ với những người có bằng tiến sĩ hoặc học hàm giáo sư, phó giáo sư nếu
về công tác, dù chưa biết họ sẽ cống hiến gì.
Thậm chí, năm 2009, dư luận được một phen xôn xao khi
Thành phố Hà Nội đưa ra mục tiêu: tới năm 2020 phấn đấu 100% cán bộ khối
chính quyền diện Thành ủy quản lý có trình độ tiến sĩ.
Để rồi 7 năm sau, bà Phó Bí thư thường
trực Thành ủy Hà Nội Ngô Thị Thanh Hằng phải than thở rằng, công tác tinh
giản biên chế của thành phố gặp khó khăn vì Hà Nội đã chuẩn hóa cán bộ, kể cả
cán bộ phường cũng có trình độ thạc sĩ, tiến sĩ.
Tệ sính bằng cấp đã khiến cách hiểu về
tiến sĩ cũng như mục đích của việc học tiến sĩ trở nên lệch lạc. Việc học
tiến sĩ với nhiều người là để làm sang, để được quy hoạch, bổ nhiệm nhiều hơn
là nhằm mục tiêu nghiên cứu khoa học.
“Chúng ta đang hiểu từ tiến sĩ như là kết quả của một kỳ thi của
văn hóa Khổng giáo trước đây, trong khi tiến sĩ là một học vị khoa học được
định nghĩa từ châu Âu” – PGS. TS Phạm Thanh Phong (Trường ĐH Tôn
Đức Thắng, hiện là GS thỉnh giảng tại ĐH Dongguk, Hàn Quốc) nói.
Nhiều người tin rằng học tiến sĩ vì tấm
bằng chính là nguyên nhân sâu xa khiến chất lượng đào tạo trở nên đáng báo
động trong nhiều năm qua.
Ông Bùi Văn Ga, nguyên Thứ trưởng Bộ
GD-ĐT, cũng thừa nhận: "NCS là
đào tạo ra các nhà nghiên cứu với những trí tuệ mới chứ không phải đào tạo kỹ
năng làm nghề. Nhiều NCS không xác định được rõ động cơ, mục tiêu này nên dẫn
đến chất lượng không đảm bảo".
Còn ông Phạm Văn Đức thì than thở: “Đã là tiến sĩ thì phải nghiên cứu chứ không
phải làm ông nọ bà kia, vì như thế là sai định hướng”.
Một dẫn chứng "thú vị" là
trong số hơn 24.300 tiến sĩ (con số năm 2009) thì theo thống kê của Bộ Khoa
học và Công nghệ vào năm 2013, chỉ có khoảng 12.000 người làm công
tác nghiên cứu khoa học (bao gồm cả giảng viên).
Một thống kê khác: Chiếm đa số số lượng
tiến sĩ được đào tạo hiện nay thuộc khối ngành quản lý kinh tế, tài chính
ngân hàng, kế toán…
Những ngành khoa học kỹ thuật, đặc biệt
là khoa học mũi nhọn tỷ lệ đào tạo tiến sĩ rất thấp và chất lượng chưa đáp
ứng được yêu cầu. Theo Bộ GD-ĐT, nhiều ngành nghề gần như không đào tạo được
tiến sĩ trong nhiều năm qua.
Khi học tiến sĩ không vì mục đích khoa
học, đương nhiên, người ta sẽ tìm mọi con đường dễ dàng nhất cốt để có được
tấm bằng tiến sĩ.
Có một giai thoại vui rằng, có vị quan
chức nọ mang luận án tiến sĩ đến nộp cho GS hướng dẫn. Thầy đọc xong, nhận
xét: “Luận văn của anh như báo cáo
của ủy ban”. Vị quan chức nọ nghe xong, lễ phép thưa: “Dạ thưa thầy, để em về bảo thư ký viết lại”.
Đó có thể chỉ là một câu chuyện tưởng
tượng, nhưng có lẽ hơn ở đâu hết, nó thể hiện rõ nét những mặt trái trong
việc đào tạo tiến sĩ ở Việt
(Theo VietNamNet) Lê Văn
|
Thứ Ba, 2 tháng 1, 2018
Đăng ký:
Đăng Nhận xét (Atom)
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét