Chiến tranh biên giới 1979: Chiến thuật “biển người”
của TQ
Cập nhật lúc 07:40
Số lượng quân binh sĩ, khí tài mà Trung Quốc sử dụng trong chiến
thuật biển người vẫn chưa có con số thống nhất; nhưng nhiều tài liệu cho biết
đây là đợt huy động quân sự lớn nhất của Trung Quốc kể từ chiến tranh Triều
Tiên.
"Không
giỏi cũng bắn trúng lính TQ"
Sáng 17/2/1979,
2 sư đoàn bộ binh Trung Quốc dưới sự yểm trợ của 1 trung đoàn xe tăng và 6
trung đoàn pháo binh đã tràn vào cửa ngõ Đồng Đăng, Lạng Sơn. Với chiến thuật
rải “biển người” của quân xâm lược, các lực lượng vũ trang, bộ đội địa phương
đã anh dũng hy sinh sau khi chống trả quyết liệt. Công an Lạng Sơn là một
trong những lực lượng tham gia chiến đấu và bảo vệ từng tấc đất quê hương,
bảo vệ người dân. Sau cuộc chiến, từ có vài trăm người, họ chỉ còn lại 6
người, đều được phong anh hùng.
Đại tá Triệu
Quang Điện, Trưởng phòng truy nã tội phạm, Công an tỉnh Lạng Sơn, Anh hùng
Lực lượng vũ trang nhân dân kể “không bắn giỏi vẫn trúng lính Trung Quốc” để
mô tả chiến dịch biển người của họ. Trong trận chiến Đồng Đăng, ông Điện cùng
đồng đội đã chống trả quyết liệt, và sau đó lùi dần về hang Đền Mẫu (cách
pháo đài Đồng Đăng chừng 500m) để bảo vệ mấy trăm người dân đang trú ẩn trong
hang.
Trong hồi ức
của ông, những căng thẳng tại khu vực biên giới đã diễn ra rất lâu. Trước đó,
Trung Quốc đã cho thám báo sang cài cắm người làm công tác dân vận tại Đồng
Đăng, kích động người dân. Cùng lúc đó, dòng người Hoa về nước dồn dập khiến
khu vực biên giới rất căng thẳng. Lúc đó các đơn vị quân đội chính quy của ta
đang chiến đấu ở Campuchia, và theo luật quốc tế các lực lượng quân đội chính
quy phải đóng cách biên giới mấy chục cây, nên vào quân Trung Quốc tràn sang
công an, dân quân và biên phòng là lực lượng chính ứng chiến.
Thời điểm đó,
binh nhì Triệu Quang Điện vừa xong khoa huấn luyện và trở lại Đồng Đăng. Ông
cùng hai đồng đội khác là Vi Văn Cao và Trần Văn Thái đang đi tuần về, chưa
kịp ngả lưng thì pháo bắn ác liệt. Theo lệnh chỉ huy, ba người được điều động
lên khu vực hang Đền Mẫu để bảo vệ người dân, cùng nhiều lực lượng khác.
Trong hồi ức của ông, trong vòng một tiếng đầu, tiểu đội của ông đã hy sinh
gần hết. Hai người cùng tổ là Vi Văn Cao và Trần Văn Thái bị trúng pháo hy
sinh ngay trước mắt ông. Biển người và xe tăng, đạn pháo của Trung Quốc đã
vùi dập Đồng Đăng và sau đó tràn vào TP Lạng Sơn.
Cũng đúng hôm
Trung Quốc ào ạt xông vào biên giới phía bắc, anh bộ đội chính quy Nguyễn Văn
Bình đang trong kỳ nghỉ phép tại Đồng Đăng, Lạng Sơn. Cuộc tấn công bất ngờ
của quân xâm buộc anh trở thành chỉ huy lực lượng địa phương chiến đấu và
hướng dẫn người dân lên trú ẩn tại hang Đền Mẫu và pháo đài Đồng Đăng,
mỗi hang chứa được 300 – 400 người.
Giành giật từng phiến đá biên giới
Nhớ về cuộc
chiến tranh biên giới Việt-Trung 1978-1979, người dân Lạng Sơn không thể quên
câu chuyện anh hùng liệt sĩ Lê Đình Chinh, chiến sĩ Công an nhân dân vũ trang
đầu tiên ngã xuống tại mặt trận huyện Cao Lộc.
Ngày 25/8/1978,
quân Trung Quốc vượt biên giới sang Việt Nam hành hung cán bộ, phụ nữ và nhân
dân địa phương. Lê Đình Chinh đã đánh trả bằng tay không và bị nhóm người
Trung Quốc mặc thường phục chém gục bằng dao quắm.
Ông Nguyễn Xuân
Thịnh, bộ đội phục viên tại huyện Bình Gia, Lạng Sơn, nguyên là trung sĩ
thuộc đơn vị tăng, sư đoàn 14, đơn vị chủ lực đầu tiên tiếp cận TP Lạng Sơn
kể lại, suốt một thời gian dài, phía Trung Quốc liên tiếp gây hấn, phá hoại
các cột mốc. Các lực lượng bên kia biên giới mặc thường phục liên tục xâm
phạm lãnh thổ Việt Nam, di chuyển cột mốc và uy hiếp nhân dân vùng giáp biên.
Tuy nhiên phía ta không được phép sử dụng lực lượng vũ trang và quân trang.
Đơn vị tăng của
ông Thịnh được lệnh hỗ trợ từ bên ngoài, vì đường núi độc đạo, khó triển khai
trận địa xe tăng. Ông Thịnh nhớ y nguyên, khi vào trinh sát khu vực thị xã
Lạng Sơn, ông tận mắt thấy một nửa quả núi vừa bị lính Trung Quốc ốp bộc phá
giật sập. Đó là chính là hang Khổn Khoang, nơi ẩn náu của hai bản người Tày,
Nùng gần đó. Thật may mắn trước đó nửa ngày, toàn bộ người trong hang đã được
di chuyển đến địa điểm khác.
Vài ngày sau
khi Trung Quốc chiếm giữ Lạng Sơn và 6 tỉnh giáp biên, phá hủy các công trình
bệnh viện, trường học, cầu đường; giết hại hàng vạn người dân thường Việt
Nam, lực lượng tự vệ địa phương và bộ đội chủ lực của Việt Nam đã chống trả
kiên cường. Cầu Khánh Khê, thuộc huyện Cao Lộc, Lạng Sơn là chứng tích giao
tranh ác liệt giữa Sư đoàn 377 của Việt Nam, ngăn cản quân Trung Quốc tiến
sâu vào lãnh thổ. (Cầu Khánh Khê nằm trên quốc lộ 1B nối Đồng Đăng với huyện
Bắc Sơn, TP Thái Nguyên và Hà Nội).
Sau nhiều trận
đánh đẫm máu giành giật từng tấc đất ở các cao điểm quanh Lạng Sơn, quân
Trung Quốc bắt đầu bao vây thị xã, đồng thời tấn công đồng loạt trên nhiều
hướng. Chiều ngày 4, một cánh quân Trung Quốc vượt sông Kỳ Cùng, chiếm điểm cao
340 và xông vào thị xã Lạng Sơn; Một cánh quân khác hung hổ chiếm sân bay Mai
Pha và điểm cao 391 ở phía tây nam thị xã.
Sau gần một
tháng giằng co, ngày 16/3/1979, Trung Quốc bất ngờ tuyên bố đã hoàn thành mục
tiêu tấn công Việt Nam và bắt đầu rút quân.
Số lượng quân
binh sĩ, khí tài mà Trung Quốc sử dụng trong chiến thuật biển người này hiện
nay vẫn chưa có con số thống nhất. Nhưng theo nhiều tài liệu của giới nghiên
cứu cho biết đây là đợt huy động quân sự lớn nhất của nhà cầm quyền Bắc Kinh
kể từ chiến tranh Triều Tiên.
(Theo
TuanVietNam) Hoàng Hường
|
Thứ Ba, 15 tháng 3, 2016
Đăng ký:
Đăng Nhận xét (Atom)
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét