Trung Quốc ngày
càng bị cô lập trong cộng đồng quốc tế
Cập nhật lúc 12:01
(Dân trí) - Tiến sĩ Nguyễn Hùng Sơn, Phó
Viện trưởng Viện Biển Đông, Học viện Ngoại giao đã có bài viết khẳng định
việc Trung Quốc đưa giàn khoan dầu khí Hải Dương-981 vào vùng biển Việt Nam
chứng tỏ Trung Quốc ngày càng hung hăng, đe dọa an ninh, hoà bình và ổn định
khu vực.
Dân trí xin trân trọng
giới thiệu bài viết này:
Ngày 2/5/2014, Trung Quốc ngang nhiên hạ đặt giàn khoan dầu khí Hải Dương 981 tại tọa độ 15o29’58” vĩ Bắc – 111o12’06” kinh Đông, nằm sâu trên 80 hải lý trong vùng biển Việt
Việc làm trên của Trung Quốc đã vi phạm nghiêm trọng luật
pháp quốc tế. Cụ thể, Trung quốc đã vi phạm nghiêm trọng quyền chủ quyền và
quyền tài phán của Việt Nam theo Công ước Liên hợp quốc về Luật Biển 1982; vi
phạm luật pháp quốc tế về cấm sử dụng vũ lực và đe dọa sử dụng vũ lực trong
quan hệ quốc tế nói chung và trong việc giải quyết tranh chấp nói riêng; vi phạm
Tuyên bố về ứng xử của các bên ở biển Đông (DOC) mà Trung Quốc là bên tham
gia ký kết; trái với Thỏa thuận về những nguyên tắc cơ bản chỉ đạo giải quyết
vấn đề trên biển Việt Nam – Trung Quốc ký năm 2011.
Giàn
khoan Hải Dương-981 của Trung Quốc
Theo quy định Công ước Liên hợp quốc về Luật Biển 1982,
một quốc gia ven biển có quyền có vùng đặc quyền kinh tế và thềm lục địa rộng
200 hải lý tính từ đường cơ sở. Trong vùng đặc quyền kinh tế và thềm lục địa,
quốc gia ven biển hoàn toàn có quyền khai thác tài nguyên trên biển cũng như
dưới đáy biển. Các quốc gia khác chỉ có quyền qua lại vô hại trên biển và nếu
muốn thực hiện hoạt động kinh tế trong khu vực này phải được sự đồng ý của
quốc gia ven biển.
Trung Quốc ngang ngược cho rằng giàn khoan Hải Dương 981
nằm trong vùng đặc quyền kinh tế và thềm lục địa của cái gọi là “Tây Sa”
(Hoàng Sa) của Trung Quốc. Điều này hoàn toàn phi pháp, vì các lý do sau:
Thứ nhất, Hoàng Sa không phải là của Trung Quốc.
Hoàng Sa là lãnh thổ không thể tranh cãi của Việt
Thứ hai, Trung Quốc
cũng không thể lập luận rằng giàn khoan Hải Dương 981 nằm trong vùng đặc
quyền kinh tế và thềm lục địa của Hoàng Sa theo quy định của Công ước Liên
hợp quốc về Luật Biển 1982, bởi các đảo đá tại Hoàng Sa có diện tích nhỏ (lớn
nhất là đảo Phú Lâm có diện tích khoảng 2km vuông), không thỏa mãn điều kiện
pháp lý áp dụng cho quy chế đảo là phải có đời sống kinh tế riêng và có thể
tự duy trì cuộc sống. Theo Công ước Liên hợp quốc về Luật Biển 1982, các đảo
đá này không được hưởng 200 hải lý vùng đặc quyền kinh tế và thềm lục địa, mà
chỉ có vùng biển lãnh hải 12 hải lý. Điều đó khẳng định vị trí Trung Quốc hạ
đặt giàn khoan 981 (cách đảo Tri Tôn 17 hải lý và sau đó là 25 hải lý) hoàn
toàn nằm trong vùng đặc quyền kinh tế và thềm lục địa của Việt Nam và hoàn
toàn không có tranh chấp.
Trung Quốc cũng vi phạm luật quốc tế khi sử dụng vũ lực và
đe dọa sử dụng vũ lực trong việc đưa giàn khoan Hải Dương 981 vào vùng biển
Việt
Ngoài ra, để bảo vệ giàn khoan Hải Dương 981, Trung Quốc
đã tuyên bố thiết lập vùng an toàn 3 hải lý xung quanh giàn khoan. Đây cũng
là hành vi hoàn toàn trái với luật pháp quốc tế. Theo như Công ước Liên hợp
quốc về Luật biển 1982, một quốc gia chỉ được phép thiết lập vùng an toàn 500
mét cho các công trình và thiết bị lắp đặt trên biển. Trên thực tế, phạm vi các
tàu hải cảnh, hải giám, ngư chính và tàu quân sự của Trung Quốc ngăn cản tàu
thực thi pháp luật của Việt Nam bảo vệ chủ quyền vùng đặc quyền kinh tế và
thềm lục địa của Việt Nam lên tới 30-40 hải lý. Hành động này đã đe dọa tự
do, an ninh và an toàn hàng hải trong khu vực. Kèm theo đó, việc các máy bay
trinh sát và tiêm kích của Trung Quốc thường xuyên bay sát, uy hiếp các tàu
công vụ của Việt Nam đã trở thành mối đe dọa đối với an toàn và tự do hàng
không trên vùng biển này.
Trong năm 2003 và 2004, Trung Quốc đã đưa ra khái niệm về
''trỗi dậy hòa bình'' và ''phát triển hòa bình'' để trấn an thế giới về sự
phát triển của mình, cam kết không trở thành bá quyền. Năm 2013, Trung Quốc
giới thiệu chính sách ngoại giao láng giềng, theo đó lãnh đạo Trung Quốc đề
xuất sáng kiến con đường tơ lụa trên biển và đề nghị ký hiệp định láng giềng hữu
nghị với ASEAN. Tuy nhiên, với những hành động gây hấn và khiêu khích đặc
biệt mạnh lên từ năm 2009 trở lại đây trên biển Đông và cả biển Hoa Đông,
Trung Quốc đã cho thế giới thấy khoảng cách ngày càng lớn giữa lời nói và
hành động của Trung Quốc và đưa ra một hình ảnh Trung Quốc ngày càng ưa sử
dụng sức mạnh trong việc khẳng định chủ quyền dựa trên việc tạo ra những
“thực tế mới” trên biển Đông. Từ đó, trong con mắt của công luận quốc tế,
Trung Quốc đã trở thành một nước ngày càng hung hăng, vi phạm luật pháp quốc
tế, đe dọa an ninh, hoà bình và ổn định khu vực.
Khoảng cách giữa lời nói và hành động của Trung Quốc càng
lớn thì lòng tin của các quốc gia trong khu vực đối với Trung Quốc càng giảm,
Trung Quốc càng bị cô lập trong cộng đồng khu vực và quốc tế. Và khi niềm tin
về sự trỗi dậy hòa bình của Trung Quốc càng thiếu cơ sở thì việc các nước trong
khu vực tìm kiếm các biện pháp tài phán, xây dựng các mối quan hệ hợp tác
quốc tế mới, thậm chí tăng cường khả năng tự vệ là điều cần thiết và hợp lý.
Điều này hoàn toàn đi ngược với lợi ích của Trung Quốc, cả về ngắn hạn và dài
hạn, bởi vì nước lớn nào cũng phải tạo dựng một môi trường hòa bình và hợp
tác ở khu vực địa lý kề cận với mình. Một môi trường như vậy không thể được
tạo dựng bằng chính sách cường quyền và một chính sách cường quyền thì không
thể giúp xây dựng các mối quan hệ bè bạn.
TS. Nguyễn Hùng
Sơn
Phó Viện trưởng Viện Biển Đông, Học viện Ngoại giao |
Thứ Ba, 10 tháng 6, 2014
Đăng ký:
Đăng Nhận xét (Atom)
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét