‘Ông Phạm Văn Đồng
không bao giờ tuyên bố bỏ Hoàng Sa’
Cập nhật lúc 20:11
“Ông Phạm Văn Đồng không bao giờ tuyên bố bỏ
Hoàng Sa, không bao giờ nói chịu nhượng bộ bất cứ đảo nào của VN, bất cứ đâu”
- GS Ngô Vĩnh Long phân tích.
Tiếp tục mổ xẻ luận điệu của TQ bám vào Công thư 1958 để
bịa ra việc VN bỏ Hoàng Sa và thừa nhận chủ quyền của TQ đối với quần đảo
này, GS Ngô Vĩnh Long, Khoa Lịch sử, Đại học Maine, Mỹ đã bác bỏ cách diễn
giải hòng giành lấy chủ quyền về dư luận theo cách TQ đang làm.
“Ông Phạm Văn Đồng không bao giờ tuyên bố bỏ Hoàng Sa,
không bao giờ nói chịu nhượng bộ bất cứ đảo nào của VN, bất cứ đâu. Ông Phạm
Văn Đồng chỉ đồng ý theo yêu cầu của ông Chu Ân Lai rằng, lãnh hải có 12 dặm
bởi vì quốc tế lúc đó nói lãnh hải chỉ có 3 dặm thôi. Ông Đồng đồng ý vấn đề
đó, không có nghĩa là hiến cả Hoàng Sa cho TQ.”
Đồng quan điểm, GS Monique Chemillier -Gendreau, nguyên
Chủ tịch Hội luật gia Dân chủ Thế giới phân tích, công thư của Thủ tướng Phạm
Văn Đồng chỉ là “ghi nhận và tán thành bản tuyên bố ngày 4 tháng 9 năm 1958
của Chính phủ Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa quyết định về hải phận của TQ nhưng
không có sự khẳng định công nhận yêu sách của TQ với hai quần đảo.”
Công thư không có giá trị pháp lý
TQ cho rằng, quần đảo Hoàng Sa thuộc chủ quyền của mình và
VN đã hơn một lần công nhận chủ quyền của TQ đối với quần đảo này.
Yêu sách đó dựa trên công thư của Thủ tướng VN Dân chủ
cộng hòa Phạm Văn Đồng gửi Thủ tướng Chu Ân Lai vào ngày 14 tháng 9 năm 1958
đã thừa nhận tuyên bố của Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa ấn định chiều rộng lãnh
hải TQ 12 hải lý. Tuyên bố của TQ nói sự mở rộng lãnh hải này áp dụng cho
“các quần đảo Đài Loan, Đông Sa, Trung Sa, Tây Sa và Nam Sa và tất cả các đảo
thuộc TQ”.
Liệu sự im lặng về tình trạng của Hoàng Sa và Trường Sa
trong công thư này có được coi như là sự ngầm công nhận đối với chủ quyền của
TQ trên hai quần đảo này?
Ở đây, đối tượng của một sự cam kết đơn
phương cần phải thật chính xác. Việc giải thích ý chí của một quốc gia phải
thận trọng.
Công thư của Thủ tướng Phạm Văn Đồng có mục đích đáp ứng
yêu cầu của TQ đối với các nước xã hội chủ nghĩa nhằm ủng hộ cuộc đấu tranh
của họ chống lại chính sách tự do trên biển của Mỹ theo đuổi trong eo biển
Đài Loan, đe dọa tới nền an ninh quốc gia của TQ vào thời kỳ đó.
Công thư cho thấy một sự cam kết mang
tính chính trị nhiều hơn pháp lý, một hình thức thường được các nước xã hội
chủ nghĩa sử dụng để thể hiện sự đoàn kết về mặt tư tưởng.
Mặt khác, phù hợp với nguyên tắc theo đó “các hạn chế sự
độc lập không thể suy diễn”, sự từ bỏ phải được nói rõ và không được suy
diễn. Công thư của Thủ tướng Phạm Văn Đồng không chứa đựng bất kỳ sự từ bỏ rõ
ràng nào chủ quyền trên hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa.
Hơn nữa, căn cứ vào chức năng quyền hạn của mình, một Thủ
tướng không có thẩm quyền từ bỏ hoặc chuyển nhượng lãnh thổ. Thẩm quyền đó
thuộc về Quốc hội VN.
Tác giả
Trong cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu
nước, VN và TQ đã đồng ý rằng, các tranh chấp của hai nước sẽ được giải quyết
trong một thời điểm thích hợp thông qua đàm phán.
Công thư của Thủ tướng Phạm Văn Đồng không nằm trong bối
cảnh tranh chấp giữa Hà Nội và Bắc Kinh. Vì thế, “không gì có thể ngăn cản
các bên đạt thỏa thuận bằng con đường thông thường, đó là một thỏa thuận với điều
kiện có đi có lại.”
Công thư của Thủ tướng Phạm Văn Đồng không chứa đựng đặc
điểm có đi có lại. Do đó, không thể xem công thư này như là sự từ bỏ chủ
quyền đối với quần đào Hoàng Sa và Trường Sa.
“Khi Công thư 1958 gửi TQ, lúc bấy giờ, quần đảo Hoàng Sa
và Trường Sa đang thuộc quyền quản lý của VN Cộng hòa, theo Hiệp định Genève
năm 1954 và TQ là một bên tham gia. Theo logic thông thường, bạn không thể
cho người khác những gì khi bạn chưa có được. Do đó, Công thư của cố Thủ
tướng Phạm Văn Đồng không có giá trị trong việc công nhận chủ quyền đối với cái
gọi là Tây Sa hay Nam Sa theo cách gọi của TQ" - Phó trưởng ban Biên giới
quốc gia Trần Duy Hải.
Như vậy, chỉ có một sự thực rõ nhất đó
là TQ đã dùng vũ lực để chiếm đóng Hoàng Sa. Điều này không thể được xem một
quyền theo luật pháp quốc tế".
Sau khi TQ giành được quyền kiểm soát quần đảo Hoàng Sa
bằng vũ lực, VN đã mất đi yếu tố vật chất của mình trên quần đảo này nhưng
người VN vẫn tiếp tục duy trì yếu tố tinh thần của mình bằng các công hàm và tuyên
bố không ngừng phản kháng lại sự chiếm đóng bất hợp pháp đó, bảo tồn các
quyền đã có từ xưa.
Bởi vì “việc sở hữu một lãnh thổ không
chấm dứt chỉ do việc mất đi sự chiếm giữ vật chất, cần phải kèm theo việc mất
đi đó ý định từ bỏ lãnh thổ.”
Theo VOV
|
Thứ Bảy, 14 tháng 6, 2014
Đăng ký:
Đăng Nhận xét (Atom)
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét