Thứ Tư, 1 tháng 5, 2013


11:30
Chuyện ngày 30/4/1975
…Thấy trong đám đông ùa đến đài có nhạc sĩ Trịnh Công Sơn (TCS), sinh viên Huỳnh Ngọc Chênh đưa anh vào và tất cả cùng anh hát vang bài “Nối vòng tay lớn”. Không có đàn trống, chúng tôi vỗ tay, gõ nhịp lên bàn cùng nhau hát vang. Băng ghi âm mới phát hiện gần đây ở Mỹ ghi rõ diễn tiến lúc đó. 

Cựu chủ tịch Tổng hội sinh viên Sài Gòn Nguyễn Hữu Thái nói trước:
“…Cách mạng Sài Gòn, Chợ Lớn Gia Định và chúng tôi xin công bố là thành phố Sài Gòn đã được giải phóng lúc 12 giờ ngày hôm nay, 30 tháng 4 năm 1975. Chúng tôi xin đồng bào hãy bình thản và bình tĩnh tiếp tục cuộc sống bình thường. Quân đội cách mạng đã làm chủ hoàn toàn thành phố và hiện tại chúng tôi (…). Như thanh niên sinh viên học sinh Sài Gòn và toàn quốc đã biết, chúng tôi xin giới thiệu anh Sơn có thể nói vài lời và cũng là hát cho quý vị nghe một bài ngăn ngắn.

Nhạc sĩ Trịnh Công Sơn lên tiếng chào mừng ngày độc lập và thống nhất: 

 “Bài hát đã có tác động làm chùng tay súng. Một ngày, một giờ mà sinh mệnh của hàng triệu con người nằm trên đường tơ kẽ tóc, một sự kiện như thế thật quá trọng đại!” Nguyễn Văn Thọ
ghi
“Tôi, nhạc sĩ Trịnh Công Sơn, rất vui mừng và cảm động gặp và nói chuyện với tất cả các anh em nghệ sĩ ở miền Nam Việt Nam này. Hôm nay là cái ngày mà mơ ước của tất cả chúng ta đó là ngày mà chúng ta giải phóng hoàn toàn tất cả đất nước Việt Nam này cũng như những điều mơ ước (của) các bạn bấy lâu là độc lập, tự do, và thống nhất (thì) hôm nay chúng ta đã đạt được những kết quả đó. Tôi yêu cầu các văn nghệ sĩ cách mạng miền Nam Việt Nam này hãy… và hợp tác chặt chẽ với chánh phủ lâm thời miền Nam Việt Nam. 
Những kẻ đã ra đi chúng ta xem như là đã phản bội đất nước. Chúng ta là người Việt Nam. Đất nước này là đất nước Việt Nam. Chúng ta ở trên đất nước của chúng ta.
Chính phủ Cách mạng lâm thời sẽ đến đây… những cái thái độ hoà giải tốt đẹp. Các bạn không có lý do gì sợ hãi để mà ra đi cả. Đây là cơ hội đẹp đẽ và duy nhất để đất nước Việt Nam thống nhất và độc lập.
Thống nhất và độc lập là những điều chúng ta mơ ước từ mấy chục năm nay. Tôi xin tất cả các bạn thân hữu cũng như những người chưa quen với tôi ở lại và chúng ta kết hợp chặt chẽ với Ủy ban cách mạng lâm thời để góp tiếng nói xây dựng Miền Nam Việt Nam này… gặp tất cả các anh em ở trong Ủy ban Cách mạng Lâm thời.
Hiện tại chúng tôi đang ở đài phát thanh Sài Gòn. Và tôi mong các bạn chuẩn bị sẵn sàng để đến đây góp tiếng nói, để lên tiếng để tất cả mọi người đều yên tâm và tôi xin tất cả các anh em sinh viên, học sinh của Miền Nam Việt Nam này hãy yên ổn kết hợp lại với nhau; khóm phường đều kết hợp chặt chẽ để đón chờ Ủy ban Cách mạng Lâm thời đến. Xin chấm dứt.
“Tôi xin hát một bài. Hiện tại ở trên đài thì không có đàn guitar, tôi xin hát lại cái bài Nối vòng tay lớn. Hôm nay, thật sự cái vòng tay lớn đã được nối kết:
Rừng núi dang tay nối lại biển xa
Ta đi vòng tay lớn mãi để nối sơn hà
Mặt đất bao la
Anh em ta về
Gặp nhau mừng như bão cát
Quay cuồng trời rộng
Bàn tay ta nắm
Nối tròn một vòng Việt Nam
Tất cả chúng tôi cùng anh hát vang bài “Nối vòng tay lớn”. Không có đàn trống, anh em vỗ tay, gõ nhịp lên bàn cùng nhau hát vang.
Bài hát ra đời từ mấy năm trước, nói lên giấc mơ của dân tộc nay mới trở thành hiện thực. Đây là bài hát đầu tiên được phát lên sóng của đài phát thanh Sài Gòn ngày giải phóng. Phải gần 20 năm sau tôi mới gặp lại người bạn học cũ Trịnh Công Sơn, gặp nhau trong ngày trọng đại này.
Bài hát này xuất hiện cùng với Huế Sài Gòn Hà Nội, Ta phải thấy mặt trời, Việt Nam ơi hãy vùng lên, Đồng dao hòa bình… vào các năm 1968-69 cổ vũ cho tinh thần hòa hợp, hòa giải dân tộc, nói lên khát vọng hòa bình, thống nhất đất nước.
Ngày 30/4/1975, chiến tranh chấm dứt tại Sài Gòn, ước mơ trong các bài hát của Sơn đã trở thành hiện thực. Có hạnh phúc nào bằng? Vinh dự biết bao!
Thế hệ chúng tôi tự hào có Trịnh Công Sơn phát lên tiếng gọi hòa hợp hòa giải dân tộc đầu tiên ngay sau khi chấm dứt chiến tranh. Làm một người nghệ sĩ, Trịnh Công Sơn chỉ cần sự kiện sáng tác Nối vòng tay lớn, hát Nối vòng tay lớn như thế là đã có tên trong bảng đồng bia đá rồi.
“Bài hát đã có tác động làm chùng tay súng. Một ngày, một giờ mà sinh mệnh của hàng triệu con người nằm trên đường tơ kẽ tóc, một sự kiện như thế thật quá trọng đại!”.
Đó là cảm giác ghi lại của anh bộ đội Nguyễn Văn Thọ khi tiến vào Sài Gòn, anh viết tiếp: “Mặt đất bao la…anh em ta về… gặp nhau mừng như bão cát quay cuồng trời rộng… Lời ca không phải là tiếng thách thức tử thủ. Lời ca không phải là tiếng bể máu như kết cục thường của chiến cuộc, lời ca khi ấy làm chùng xuống không khí thù hận và hằn học. Chúng tôi tiến vào Sài Gòn…
Chiến tranh nào bao giờ chẳng có mặt trái, nhưng tiếng hát kia, bản nhạc ấy, mở ra cho cả hai bên nghe như một liều thuốc vô hình đã làm chùng xuống một thời khắc dễ nổi cáu và nổi đóa”.
Riêng tôi không ở lại đài đến cuối phần phát thanh vì anh Lê Công Giàu, cán bộ Thành Đoàn của Mặt trận Giải phóng xuống mời tôi lên gặp ban chỉ huy tiếp quản Sài Gòn đang đóng quân ở trường Pétrus Ký (Lê Hồng Phong ngày nay).
Họ muốn gặp tôi bàn bạc kế hoạch tập hợp thanh niên sinh viên học sinh Sài Gòn vào sáng mai 1/5. Tôi quen mặt hầu hết các cán bộ Đoàn đang có mặt ở đó nguyên là học sinh sinh viên Sài Gòn, nay rắn rỏi trong quân phục quân giải phóng. Những người đã cùng tôi xuống đường đấu tranh từ 10 năm qua…
Chiều 30/4/1975, nhiều cánh quân lần lượt kéo đến. Chuẩn tướng VNCH Nguyễn Hữu Hạnh cảm thấy thanh thản và nhẹ lòng khi đã làm xong nhiệm vụ mà Ban binh vận Trung ương cục đã giao. Ông đã góp phần nhỏ bé của mình cho một Sài Gòn còn nguyên vẹn, cho một nước Việt Nam thống nhất, hòa bình. Ông bỗng nhớ đến những ngày hôm qua của đời mình: Từ một sĩ quan chống cộng trở thành cơ sở của cách mạng.
Tại Dinh Độc Lập, nhóm tướng Minh nghe đại tá Sáu Trí (Nguyễn Văn Khiêm, tình báo của cách mạng) cùng nhóm hoạt động cách mạng nội thành Tô Văn Cang vào nói chuyện, anh em đã an tâm hơn.
Nhóm Sáu Trí xuống dưới hầm họp chung với nhiều vị tướng tá cách mạng như Nguyễn Hữu An, Nam Long…
Khi nhận định tình hình còn rất phức tạp, lộn xộn, các anh cùng bàn là nên thảo một thông báo để trấn an quân đội và dân chúng. Ý kiến góp chung, nhưng các anh giao cho ông Cang chấp bút ghi lại, rồi các anh giao cho họ chạy ra đài phát thanh.
Tại đài, quần chúng tranh nhau lên tiếng thật đông, phải khó nhọc lắm xe các ông mới lọt vô được. Rồi họ lên lầu để cho ông Cang đọc chậm và rõ bảng “Thông báo số 1”, ông Giàu đi theo đọc lại lần nữa, sau đó dặn cứ 5 phút thì lặp lại một lần.
Nội dung Thông cáo số 1 của Bộ tư lịnh Quân Giải phóng Sài Gòn-Chợ Lớn-Gia Định như sau:
“Quân Giải phóng đã chiếm Dinh Độc Lập và làm chủ tình hình tất cả Sài Gòn lúc 12 giờ hiện nay, ngày 30/4/1975.
Bắt đầu từ giờ phút này, yêu cầu tất cả nhân dân thi hành mệnh lệnh của Bộ Tư lịnh Quân Giải phóng :
-Lệnh giới nghiêm bắt đầu từ 18 giờ đến 6 giờ sáng.
-Tất cả quân đội Sài Gòn, nhân dân tự vệ, cảnh sát của ngụy quyền Sài Gòn phải đến trình diện nộp vũ khí tại các Ủy ban Quân quản các Quận.
-Anh chị em công nhân phải giữ gìn bảo vệ các xí nghiệp
nhà máy.
-Công chức các cấp trong lãnh vực điện, nước, viễn thông, vệ sinh công cộng … phải tiếp tục điều hành và tuyệt đối không được hủy hoại tài sản Nhà nước.
-Bộ Tư lịnh Giải phóng sẽ nghiêm trị hành động trộm cướp, gây xáo trộn, làm mất trật tự, nghiêm cấm gây tiếng nổ, bắn súng bừa bãi gây hoang mang trong dân chúng.
Sài Gòn, ngày 30/4/1975,
Bộ Tư lịnh Quân Giải phóng Sài Gòn-Chợ Lớn-Gia Định”.
Tại Bộ chỉ huy quân cách mạng ở miệt Bến Cát, các ông Phạm Hùng, Lê Đức Thọ, tướng Văn Tiến Dũng cùng nhiều người trong bộ chỉ huy chiến dịch Hồ Chí Minh ôm nhau vui mừng khi nghe phát đi lời đầu hàng của tướng Dương Văn Minh trên đài phát thanh Sài Gòn. Họ nhận được ngay bức điện khen ngợi của Trung ương: “Chúc mừng cuộc đại thắng lợi. Các anh có nghe thấy được tiếng pháo mừng chiến thắng vang khắp Hà Nội không?”.
Tại thủ đô Hà Nội, Đại tướng Võ Nguyên Giáp là vị Tổng tư lệnh trực tiếp chỉ huy hai cuộc kháng chiến đi đến thắng lợi cuối cùng: Điện Biên Phủ năm 1954 và Sài Gòn 21 năm sau. Ông nghĩ rằng trong cả hai cuộc chiến ấy ông đều có “cơ duyên” với Thượng tướng Lê Trọng Tấn.
Trong chiến dịch Điện Biên Phủ, đơn vị do tướng Tấn chỉ huy cắm cờ trên nóc hầm tướng De Castries. Trong chiến dịch Hồ Chí Minh, lúc đầu cánh quân chủ lực để đánh vào Sài Gòn được xác định là Quân đoàn 3 từ Tây Nguyên. Nhưng cuối cùng, “cánh Duyên hải” của tướng Tấn, sau khi nhận được lệnh “thần tốc” trực tiếp từ tướng Giáp, đã tiến thẳng vào Sài Gòn cắm cờ trên dinh Độc Lập vào trưa 30/4.
Tướng Giáp kể lại rằng vào cái buổi trưa lịch sử ấy, sau khi ra nốt những mệnh lệnh cuối cùng để giải quyết chiến trường, ông đã rời tổng hành dinh nằm giữa trung tâm Thủ đô Hà Nội, lặng lẽ đi bộ ra Hồ Gươm. Ông cho rằng đó là những giây phút hạnh phúc nhất của ông.
Có lẽ ông ra đấy để thư giãn, trút đi bao nỗi nhọc mệt và căng thẳng sau bao ngày đêm theo sát chỉ đạo chiến trường. Và phải chăng ông nhìn Hồ Gươm để chiêm nghiệm việc vua Lê Lợi sau ngày dẹp tan quân thù ra khỏi bờ cõi đã từng đến đây trao lại gươm thiêng cho rùa thần để bước vào một giai đoạn mới xây dựng lại đất nước sau chiến tranh.
Nhà văn Nhật Tiến (hiện đang ở Mỹ) ghi lại các cảm nghĩ của ông vào sáng 30/4/1975 đó, 30 năm sau: “Suốt buổi sáng 30/4, đường phố Sài Gòn trải qua một cơn nhốn nháo khá lạ kỳ: Những người đi hôi của thì hăm hở, vội vã, còn những người còn đang trĩu nặng trong lòng những mối ngổn ngang tâm sự thì lạnh lùng, buồn bã nhìn cảnh đổi đời đang khởi sự diễn ra trước mắt với một vẻ bàng quan, câm nín. Và cả bóng dáng của những người lính VNCH nửa đi, nửa chạy, dáng vẻ thất thểu, đắng cay, nước mắt thì chan hòa trong nỗi niềm tuyệt vọng, bi phẫn cùng cực…
Gần trưa, người dân Sài Gòn ngỡ ngàng nhìn thấy nhiều chiếc xe chở bộ đội, phần lớn gốc miền Bắc đậu khắp nơi trên đường phố. Trên xe, bộ đội đổ xuống và mọi người nhốn nháo xúm lại, bu quanh, chỉ trỏ. Nhiều tiếng thì thào cất lên: Trẻ quá, trẻ quá. Vâng, trẻ một cách không ngờ, chỉ chừng như 16, 17, vẻ mặt xanh xao, ngơ ngác, họ nhìn đám đông chung quanh với một vẻ bỡ ngỡ, tò mò. Hiển nhiên người dân Sài Gòn không tìm thấy ở họ mảy may ánh mắt hận thù, trái với lời đồn đại kinh hoàng mà dân thành phố được nghe trong những tuần lễ trước đó.
Sau mấy phút lạ lẫm, người ta ùa ra thăm hỏi, vui mừng nắn tay nắn chân các chiến sĩ phần lớn gốc Đồng bằng sông Hồng ở miền Bắc, rất trẻ, hiền hòa, luôn tươi cười và cả rụt rè. Những người đến từ “một Việt Nam khác”, từ lâu nay khá xa cách, trông như đến từ một hành tinh nào.
Đất nước 20 năm chia cắt đã thật sự tạo một khoảng cách chưa dễ xáp nhau lại gần! Nhiều người nghĩ: Thôi, dù thế nào thì chiến tranh cũng đã chấm dứt. Chẳng ai có thể hình dung được những ngày sắp tới rồi sẽ ra sao, nhưng nhìn cho xa, xét cho tận cùng kỳ lý thì dù thế nào cũng sẽ vẫn còn hơn là tiếp tục kéo dài cuộc chiến.
Niềm vui thật sự vỡ òa trong các khu phố lao động. Trong thoáng chốc cờ giải phóng không biết chuẩn bị từ lúc nào đã tung bay khắp nơi. Cũng còn một vài binh lính VNCH kháng cự lẻ tẻ, như tại đường Gia Long (nay là Lý Tự Trọng) gần chợ Bến Thành, Hồ Con Rùa, khu Tân Sa Châu… Bộ đội nhanh chóng khống chế được họ ngay.
Vào chạng vạng tối, các toán bộ đội nhóm lửa nấu bữa cơm tối trên các bãi cỏ công viên, giống hệt như họ vẫn làm thường ngày ở trong chiến khu hoặc trên đường hành binh. Lớp trẻ thành phố vẫn tò mò bám sát hàn huyên đủ thứ chuyện, giống như những người anh em ở xa mới về nhà…
Trích từ “Chuyện ít biết về ngày giải phóng Sài Gòn”. 
 Nguyễn Hữu Thái
Nguyễn Hữu Thái.

Tác giả Nguyễn Hữu Thái
Sinh năm 1940 tại Đà Nẵng
Nguyên Chủ tịch Tổng hội Sinh viên Sài Gòn (1963-64).
Kiến trúc sư, nghiên cứu Việt Nam học, thỉnh giảng tại Tây Âu, Bắc Mỹ & Việt Nam.
Hoạt động tích cực trong phong trào tranh đấu thanh niên sinh viên học sinh miền Nam từ 1963 đến 1975. Là một “người trong cuộc” chứng kiến ngày sụp đổ và giải phóng Sài Gòn hơn 30 năm về trước.
Trích sách “Lịch sử Công an nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh”(Nhà xuất bản Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1997).
Theo Tiền Phong, tựa đề của Kinh Bắc

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét