Điều ít biết về một phần tư thế kỷ
Việt Nam
đón vốn ngoại
►Vài hồi ức về quá trình hình thành Luật Đầu tư nước ngoài 25 năm
trước...
Một góc nhà máy Toyota Việt Nam tại Vĩnh
Phúc. Một điều không thể phủ nhận là cộng đồng doanh nghiệp đầu tư nước ngoài
đã góp phần thay đổi một cách căn bản diện mạo kinh tế Việt Nam trong
thời gian qua.
Ngày
29/12/1987, Quốc hội đã chính thức thông qua Luật Đầu tư nước ngoài, văn bản
pháp lý quan trọng nhất chính thức hóa việc tiếp nhận đầu tư nước ngoài (FDI)
tại Việt Nam
kể từ quá trình đổi mới. Ở thời điểm này nhìn lại, Việt Nam đã chính
thức mở cửa đón dòng vốn FDI được tròn một phần tư thế kỷ.
Từ Điều lệ đầu tư 1977
GS. Lưu Văn Đạt, hiện là Chủ nhiệm Hội đồng Tư vấn dân chủ - pháp luật của Ủy
ban Mặt trận Tổ quốc Việt Nam,
là một trong những người lưu giữ những ký ức sâu nặng nhất về tiến trình mở
cửa thu hút đầu tư nước ngoài của Việt Nam.
Ngược thời gian, vào một ngày đầu năm 1977, trong một buổi làm việc tại Văn
phòng Thủ tướng, Phó thủ tướng Đặng Việt Châu đã truyền đạt chủ trương soạn
thảo một văn bản pháp luật tạo điều kiện và cơ sở pháp lý cho người nước
ngoài đầu tư vào Việt Nam, trực tiếp làm ăn, kinh doanh tại Việt Nam.
Trò chuyện với VnEconomy, ông Đạt đặc biệt nhấn mạnh đến vai trò của Phó thủ
tướng Đặng Việt Châu, người đã “có ý tưởng đầu tiên về việc đưa ra một văn
bản pháp luật quy định về chuyện đầu tư của nhà đầu tư nước ngoài”.
Tuy nhiên, trong nhận thức chung lúc đó, có nhiều điều không thống nhất và
đặc biệt, có sự chủ quan. “Bối cảnh lúc đó, chúng ta vừa chiến thắng và thống
nhất, trong tư tưởng có nhiều cái rất chủ quan. Chúng ta nghĩ rằng chúng ta
là một nước hấp dẫn đối với các nhà đầu tư nước ngoài, chúng ta đánh giá mình
quá cao. Do đó, chúng ta đã đề ra các điều kiện quá cao trong nghị định trước
đó”, ông Đạt nhớ lại.
Bình luận về Điều lệ đầu tư năm 1977, ngân hàng National City Bank viết:
“Người Việt Nam
đã bày tỏ một mức độ khá thực dụng khi đưa ra bản điều lệ đầu tư nước ngoài
có thể xem là không thông thường mà chính phủ một nước xã hội chủ nghĩa đã
công bố”.
Trong khuôn khổ Điều lệ đầu tư năm 1977, các công ty dầu khí Tây Đức, Italia,
Canada được Chính phủ Việt Nam cấp giấy phép đầu tư thăm dò, khai thác dầu
khí tại một số khu vực ở thềm lục địa miền Nam Việt Nam, tuy nhiên nhìn về
tổng thể, các kết quả đạt được là “không như mong muốn”.
Những nhà đầu tư tiềm năng của thế giới ít nhiều nhòm ngó thị trường Việt Nam thì hầu
hết đều đến từ các nước “tư bản”. Mới thoát ra được khỏi cuộc chiến tranh
thống nhất với lá cờ chống đế quốc tư bản được phất cao, thật khó để tạo ra
trong hàng ngũ lãnh đạo các cấp một nhận thức cần chấp nhận dòng vốn của
chính các nước tư bản để phát triển kinh tế.
Điều đó lý giải vì sao dù đã có Điều lệ đầu tư nước ngoài, nhưng trong khoảng
thời gian 10 năm, hầu như không có dấu ấn đáng kể nào từ dòng vốn đầu tư quốc
tế lên nền kinh tế Việt Nam. Nhiều tư liệu cho thấy, không ít cuộc tranh luận
đã xảy ra ở hàng ngũ lãnh đạo cao cấp về việc liệu một nhà đầu tư Úc, Mỹ hay
Hàn Quốc, mới ngày nào còn là “đế quốc tư bản bên kia bờ chiến tuyến”, lại có
thể ngồi cùng nhau để thảo luận về lợi ích.
Quyết định lịch sử
Nhưng thực tế ấy là cơ hội để Luật Đầu tư nước ngoài ra đời. Không dễ dàng
như nhiều luật khác, sự ra đời của Luật Đầu tư nước ngoài chịu những áp lực
rất lớn vào thời điểm ấy, khi mà về thực tiễn thì nhà nước chưa có kinh
nghiệm gì, trong khi về tư tưởng và lý luận thì còn nhiều tranh cãi.
Luật Đầu tư nước ngoài năm 1987 “ra” được đến Quốc hội là cả một chặng đường
dài, và phải đến một cuộc họp của Hội đồng nhà nước vào ngày 16/11/1987 mới
có thể “chốt” được về cơ bản. Trước đó, Bộ Chính trị Trung ương Đảng cũng đã
cho ý kiến về dự thảo luật trong phiên họp ngày 10/9/1987
Thực hiện kết luận của Chủ tịch Hội đồng Nhà nước tại phiên họp ngày 16/11,
Ủy ban Kinh tế đối ngoại của Hội đồng Bộ trưởng phối hợp với Uỷ ban Pháp luật
của Quốc hội đã tổ chức hai cuộc họp (ở Hà Nội và Tp.HCM) để lấy ý kiến của
một số ngành, địa phương và đơn vị kinh tế cơ sở; đồng thời cũng đã gửi đến
các đoàn đại biểu Quốc hội để lấy ý kiến.
Sau hai cuộc họp này, và trên cơ sở ý kiến đóng góp thêm của Hội đồng Nhà
nước, ban dự thảo luật đã chỉnh lý thêm thành bản dự thảo mới và trình xin thông
qua tại kỳ họp thứ 2, Quốc hội khóa 8, tháng 12/1987.
Trong hồi tưởng của GS. Lưu Văn Đạt, một trong những người chấp bút soạn Luật
Đầu tư nước ngoài 1987, trước khi bắt tay vào soạn thảo nâng điều lệ đầu tư
nước ngoài thành luật, ông có được sự ủng hộ rất lớn của một số đồng chí lãnh
đạo cao cấp của Chính phủ. Tuy nhiên, khi đi vào từng nội dung cụ thể, các
lãnh đạo cũng phải nhiều lần “nâng lên đặt xuống”.
Điều đó lý giải tại sao khi “diễn đạt” các nội dung của luật, các nhà soạn
thảo vẫn phải phải dùng ngôn ngữ và “lập trường” của các nhà lập pháp xã hội
chủ nghĩa.
Trong phiên họp ngày 23/12/1987, tờ trình về dự thảo luật này đã được ông Võ
Đông Giang, Chủ nhiệm Ủy ban Kinh tế đối ngoại trình bày trước Quốc hội. Ngay
phần mở đầu, tờ trình đã phải nhấn mạnh rằng luật được xây dựng là để “thực
hiện Nghị quyết số 19 của Bộ Chính trị ngày 17/7/1984 và Nghị quyết Hội nghị
Ban Chấp hành Trung ương lần thứ 7 (khóa V) ngày 20/12/1984 về việc “bổ sung
và hoàn thiện Điều lệ đầu tư đã ban hành (năm 1977), tiến tới xây dựng một bộ
luật đầu tư hoàn chỉnh”.
Tuy nhiên, việc soạn thảo luật là để hướng tới việc “thể chế hóa đường lối hợp
tác kinh tế của nước ta với nước ngoài, trước hết là với Liên Xô và các nước
xã hội chủ nghĩa”.
Vẫn theo tờ trình, “vấn đề cốt lõi trong chính sách hợp tác kinh tế với nước
ngoài là xử lý lợi ích của ta và của bên nước ngoài sao cho vừa có lợi cho
ta, vừa bảo đảm những lợi ích chính đáng của bên nước ngoài”. Tuy nhiên, “lợi
ích chính của bên nước ngoài là lợi nhuận cao và an toàn về vốn, lãi; riêng
đối với các nước xã hội chủ nghĩa, cần có sản phẩm đáp ứng yêu cầu của bạn mà
không phải trả bằng ngoại tệ mạnh”.
Dự thảo luật cũng xác định những mục tiêu chính của luật là “giành được
càng sớm càng tốt những cái ta đang thiếu và rất cần là vốn, kỹ thuật, kinh
nghiệm quản lý và chỗ đứng trong phân công lao động quốc tế; và để đổi lại,
sẽ “bảo đảm cho người đầu tư nước ngoài được an toàn tối đa về tài sản, được
quản lý kinh doanh có hiệu quả, được lợi nhuận khá hơn hoặc ít nhất là tương
đương với lợi nhuận đầu tư ở những nước láng giềng của ta”.
Để thể hiện sự “cởi mở” đối với các nhà đầu tư nước ngoài, về vốn của bên
nước ngoài tham gia xí nghiệp liên doanh, khác với Điều lệ đầu tư 1977 quy
định phần góp vốn của bên nước ngoài vào xí nghiệp liên doanh tối thiểu 30%,
tối đa 49% số vốn góp của hai bên, Luật này không hạn chế mức cao nhất và chỉ
quy định mức tối thiểu, không dưới 30% số vốn góp của hai bên.
Quy định này, theo ông Võ Đông Giang, là do “từ những năm 70, các nước thường
không quy định như vậy nữa, vì các nhà tư bản nước ngoài sợ rằng nếu chỉ được
đầu tư tối đa 49% thì quyền lãnh đạo kinh doanh sẽ nằm trong tay các nước
đang phát triển là những nước quản lý kinh doanh rất tồi”.
Một điểm đáng chú ý khác là việc sẽ thành lập ủy ban nhà nước về hợp tác và
đầu tư để thống nhất đầu mối quản lý và giải quyết các hoạt động đầu tư nước
ngoài. “Người đầu tư nước ngoài sẽ ngần ngại nếu họ phải giao dịch với quá
nhiều đầu mối và nếu không có một cơ quan có thẩm quyền quyết định”, ông Giang
phân tích với Quốc hội.
Rất nhiều nội dung trong Luật Đầu tư nước ngoài năm 1987, giờ đây nhìn lại
rất chặt chẽ và cứng nhắc, nhưng theo hồi tưởng của những người tham gia soạn
thảo, thì thực sự đã là “cách mạng” khi đó. Chính phủ, khi tiến hành tổng kết
các chính sách quan trọng trong 5 năm 1986-1990, đã xếp việc ban hành Luật
Đầu tư nước ngoài trong 9 nội dung quan trọng nhất, cùng với các nội dung đã
đi vào lịch sử như khoán nông nghiệp, trao quyền tự chủ kinh doanh cho xí
nghiệp quốc doanh, xóa bao cấp, chuyển ngân hàng sang kinh doanh…
Vai trò “tư vấn ngoại”
Vẫn theo hồi tưởng của GS. Lưu Văn Đạt, trong quá trình xây dựng luật, ban
soạn thảo đã tranh thủ được sự giúp đỡ của một số tổ chức quốc tế, như Hội
đồng Kinh tế Châu Á – Thái Bình Dương (Liên hiệp quốc), Vụ Pháp luật Ban thư
ký Liên hiệp quốc và nhiều chuyên gia pháp luật, kinh tế, kỹ thuật nước ngoài
thuộc nhiều quốc tịch, trong đó có những chuyên gia có tầm cỡ quốc tế
như ông Ganessan (Ấn Độ), tiến sĩ Strunck (CHLB Đức)…
Nhằm hoàn thiện dự thảo trình Quốc hội, ban soạn thảo được phép gửi dự thảo
cho một số chuyên gia Liên hiệp quốc để bình luận, đồng thời tiếp xúc với các
nhà kinh doanh và nhà báo nước ngoài để thông báo và trao đổi ý kiến về
nội dung của dự thảo.
Một trong những chuyên gia như vậy, ông Newman, cố vấn pháp lý của Unido đã
có bản góp ý rất chi tiết cho nhiều điều khoản trong dự thảo luật. Một tài
liệu gồm hai trang đánh máy của “văn bản góp ý” này hiện vẫn còn được ông Lưu
Văn Đạt lưu giữ.
Một trong những điều khoản được các chuyên gia nước ngoài đặc biệt quan tâm
chính là việc bảo toàn lợi ích cho nhà đầu tư vì bối cảnh lúc đó vẫn còn
nhiều rủi ro. Theo ông Newman, một liên doanh hoặc một xí nghiệp tư nhân cần
được đảm bảo “sẽ không bị quốc hữu hóa trong quá trình thực hiện hợp đồng
liên doanh hoặc giấy phép đầu tư “, “…trong những trường hợp ngoại lệ quốc
hữu hóa trở thành hết sức cần thiết theo quan điểm của Chính phủ và của Quốc
hội vì quyền lợi ích tối cần của quốc gia, Chính phủ sẽ thông qua việc thoả
thuận giữa hai bên với người nước ngoài mà bồi thường xứng đáng cho người
nước ngoài đó”.
Chính tư tưởng “bảo vệ nhà đầu tư”, được hiện thực hóa trong Luật Đầu tư nước
ngoài năm 1987, đã khiến cho dự luật này nhận được sử ủng hộ mạnh mẽ của các
nhà đầu tư nước ngoài, mở ra giai đoạn thu hút đầu tư mạnh mẽ trong những năm
sau đó. Sự hợp tình hợp lý trong các ý kiến đóng góp của các chuyên gia quốc
tế đã được tiếp nhận.
Với tư tưởng “bảo vệ nhà đầu tư”, các nội dung như “thành lập doanh nghiệp
100% vốn nước ngoài”, “chuyển lợi nhuận ra nước ngoài”, “xử lý tranh chấp”…
đều đã được đưa vào luật, qua đó tạo sự tin tưởng cho các nhà đầu tư nước
ngoài.
Luật Đầu tư nước ngoài đã trải qua nhiều lần sửa đổi kể từ khi được ban hành,
và hiện nay vẫn tiếp tục được sửa đổi cho phù hợp với tình hình mới. Tuy
nhiên, vai trò lịch sử của nó đã được khẳng định: trên 14 ngàn dự án có vốn
đầu tư nước ngoài với tổng vốn đầu tư đăng ký trên 200 tỷ USD đang còn hiệu
lực chính là kết quả vĩ đại của 25 năm mở cửa.
Cho dù, còn mặt này mặt kia chưa đạt, thì một điều không thể phủ nhận là cộng
đồng doanh nghiệp đầu tư nước ngoài đã góp phần thay đổi một cách căn bản
diện mạo kinh tế Việt Nam trong thời gian qua.
(Theo VnEconomy) Anh
Minh
|
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét