Những siêu dự án "kéo lùi" đất nước
Cập nhật lúc 15:52
Vừa
qua, Dân trí đã liên tục đưa tin, phản ánh về những “siêu” dự án, công trình:
Dự án mở rộng Nhà máy Gang thép Thái Nguyên, Dự án Nhà máy đạm Ninh Bình...
Đây là những công trình có vốn từ vài ngàn đến hàng chục ngàn tỉ đồng, nhưng
hiện đều trong tình trạng thua lỗ, nợ nần như "chúa chổm".
Nhà máy Đạm Ninh Bình, đầu tư 12.000 tỉ đồng, những qua 4 năm, mỗi năm
thua lỗ 2000 tỉ đồng. (Ảnh M.Đ)
Có những công trình đã nhiều năm "đắp
chiếu". Những đề nghị rót thêm vài ngàn tỉ để duy trì sự hoạt động của
chúng đang được xem xét, bởi nếu thực hiện, chẳng khác gì tiền nuôi... người
nghiện.
Khi chuẩn bị xây dựng những siêu dự án, công trình này, từ 5 năm, 10
năm, 20 năm... về trước, người ta đều luôn khẳng định bằng những lời có cánh:
Là chủ trương đúng đắn, phát huy nội lực, thúc đẩy sản xuất trong nước, giảm
lệ thuộc vào nhập khẩu, cân bằng cán cân thanh toán, tạo công ăn việc làm...
Và thực sự, không ít nhà lãnh đạo, nhiều bộ, ngành khi ký quyết định cho thực
hiện, các tập đoàn, doanh nghiệp lớn của nhà nước khi đề xuất, triển khai,
không ít người đã thực sự tin vào điều đó.
Nhưng cho đến thời điểm này nhìn lại hàng
loạt công trình có qui mô vốn đầu tư lớn từ ngân sách nhà nước , cũng có một
số công trình, dự án đầu tư có hiệu quả, đóng góp không nhỏ vào phát triển
kinh tế. Có thể thấy công trình thủy điện Hoà Bình và gần nhất là các công
trình thủy điện Sơn La, Lai Châu mới hoàn thành nhưng thực sự rất có hiệu quả
do đóng góp rất lớn sản lượng điện cho hệ thống điện quốc gia, giá thành thấp.
Một số công trình trong ngành dầu khí cũng
có thể nói đạt hiệu quả khá cao như Nhà máy Đạm Phú Mỹ, sản phẩm chất lượng
tốt và hàng năm đều có lợi nhuận đạt hàng ngàn tỉ đồng và thực sự cũng giúp
hạn chế nhập khẩu phân bón, tiết kiệm ngoại tệ, tạo công ăn việc làm như chủ
đầu tư mong muốn khi lập dự án.
Nhưng điều đó cũng không làm mờ đi thực tế
là ngày càng có nhiều "siêu" dự án, công trình nhưng thua lỗ nặng
nề và nguy cơ phá sản cận kề. Dự án Nhà máy Đạm Ninh Bình do Công ty TNHH MTV
Đạm Ninh Bình (Tập đoàn Hoá chất) đầu tư với số vốn 12.000 tỷ đồng nhưng qua
4 năm hoạt động, mỗi năm đã lỗ khoảng 2000 tỉ đồng. Nhà máy sản xuất xơ sợi
Đình Vũ của Công ty Cổ phần Hoá dầu và Xơ sợi dầu khí (PVTex), thuộc Tập đoàn
Dầu khí Việt Nam đầu tư tới 7000 tỷ đồng nhưng nay đã phải tạm ngừng hoạt
động, vốn chủ sở hữu gần như mất trắng.
Một loạt các nhà máy sản xuất nhiên liệu
sinh học Ethanol vừa qua được đầu tư nhằm cung cấp nhiên liệu pha trộn để sản
xuất xăng sinh học (E5) vừa qua mà Dân trí phản ánh, nhiều công trình đã phá
sản, hoặc vẫn còn hoạt động nhưng không khác gì "xác sống"
(Zombie). Các công trình này phá sản đặt chủ trương toàn quốc sử dụng xăng E5
trước nguy cơ thất bại hoàn toàn.
Ở một loạt đại dự án này, sự thất bại, đổ
vỡ đều có một số đặc điểm chung: Sử dụng công nghệ lạc hậu (phần nhiều các
Nhà máy sản xuất nhiên liệu sinh học đều dùng công nghệ lạc hậu của Trung
Quốc), Nhà máy đạm Ninh Bình đầu tư 700 triệu USD, cũng được chủ đầu tư thừa
nhận thất bại là do sử dụng công nghệ lạc hậu, không đồng bộ từ Trung Quốc.
Dự án mở rộng Nhà máy gang thép Thái Nguyên trong cảnh hoang tàn
Nhưng cũng có những dự án thất bại, được
nhiều chuyên gia kinh tế dự báo từ trước do chủ trương đầu tư sai lầm, do
những người lãnh đạo quyết định, phê duyệt dự án không có tầm nhìn xa, chỉ
thấy lợi ích trước mắt, không thấy trước xu hướng hội nhập công trình, dự án
sản xuất ra những sản phẩm đó sẽ phải cạnh tranh gay gắt với những sản phẩm
nhập khẩu chất lượng cao, giá lại rẻ do thuế suất nhập khẩu ngày càng giảm
theo cam kết. Điều này có thể nhìn thấy ở hàng loạt nhà máy sản xuất đường,
thép, đua nhau thua lỗ, sụp đổ trước làn sóng sản phẩm cùng loại, nhập khẩu
từ nước ngoài.
Cho đến thời điểm này, ngay cả những công
trình có qui mô cực lớn như Nhà máy Lọc dầu Dung Quất, Tổ hợp Lọc hoá dầu
Nghi Sơn, được đầu tư hàng chục ngàn tỉ đồng nhưng cũng đứng trước những khó
khăn rất lớn do Việt Nam càng đẩy mạnh hội nhập, thuế suất nhập khẩu xăng dầu
hầu hết giảm về 0-5% thì sản phẩm của các nhà máy này khó có thể cạnh tranh
nổi.
Nhưng với hàng ngàn tỉ đồng, hàng chục ngàn
tỉ đồng đã đầu tư cho mỗi công trình, sự kém hiệu quả, thua lỗ, phá sản sẽ
gây lên nhiều hậu quả lớn: Lãng phí, thất thoát vốn ngân sách, khiến ngân
sách nhà nước đã khó khăn, lại mất đi một nguồn lực to lớn lẽ ra có thể đầu
tư vào những việc, những dự án phát huy hiệu quả kinh tế-xã hội cao hơn.
Và vô hình chung, chính việc ra quyết định
đầu tư cho những siêu dự án, những đại công trình đó lại làm chậm đi quá
trình phát triển của đất nước. Các dự án, công trình phá sản, kéo theo nợ
xấu, ảnh hưởng tiêu cực đến sự lành mạnh của hệ thống ngân hàng.
Có nhiều người đã nói rằng, việc ra quyết
định sai, chủ trương đầu tư sai cho những dự án, công trình đó, gây ra hậu
quả lớn hơn cả tham nhũng. Nhưng có ai biết đâu, có thể có những dự án, công
trình, chính vì tham nhũng mới có quyết định, chủ trương sai? Bởi có dự án,
việc quyết định mua công nghệ lạc hậu mà không lựa chọn công nghệ hiện đại,
chọn nhà thầu yếu chứ không chọn nhà thầu có năng lực là có động cơ, lợi ích
cá nhân, có phần trăm, hoa hồng của ai đó?
Cho nên nói, với nhiều công trình, dự án
lớn có thảm cảnh như ngày hôm nay, phải xem xét, truy cứu trách nhiệm của
người lập dự án, người phê duyệt, quyết định cho làm dự án không phải là
không có lý. Phải hơn nữa, phải nhìn lại toàn bộ cách thức đầu tư, phê duyệt
dự án có vốn đầu tư nhà nước, các dự án do các Tập đoàn, tổng công ty lớn của
Nhà nước đầu tư. Bởi chúng ta đã có quá nhiều thực tế, bài học cho thấy, đầu
tư từ ngân sách, từ các doanh nghiệp nhà nước phần nhiều là kém hiệu quả.
Cho nên, càng thu hẹp, chuyển đổi hình
thức, chuyển đổi cách thức sử dụng vốn đầu tư... đặt trong bối cảnh hội nhập,
tự do cạnh tranh, thúc đẩy, tạo điều kiện cho doanh nghiệp tư nhân đầu tư mới
có thể bớt đi hình ảnh những công trình ngàn tỉ của nhà nước, xây dựng chưa
được bao năm đã đắp chiếu, để cỏ mọc lút đầu, hoang tàn.
(Theo DTO) Mạnh Quân
|
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét