Việt Nam kiên
quyết bảo vệ chủ quyền hợp pháp ở Biển Đông
Cập nhật lúc 14:35
Trong những
ngày qua, nhóm tàu khảo sát Hải Dương 8 của Trung Quốc lần thứ 2 đã vi phạm
vùng đặc quyền kinh tế và thềm lục địa Việt Nam ở khu vực phía Nam Biển Đông.
Đây là vùng biển hoàn toàn của Việt Nam, được xác định theo đúng các quy định
của Công ước Liên Hợp Quốc về Luật Biển (UNCLOS) 1982 mà Việt Nam và Trung
Quốc đều là thành viên. Dư luận lo ngại các hành vi vi phạm của Trung Quốc
trên Biển Đông làm suy giảm lòng tin, gia tăng căng thẳng, dẫn tới nguy cơ
mất an ninh, an toàn, tự do hàng hải, hàng không.
Phóng viên VOV đã phỏng vấn Tiến sĩ Phạm Lan Dung, Tổng Thư ký
Hội Luật Quốc tế Việt Nam về những hành vi vi phạm của Trung Quốc và những nỗ
lực ngoại giao của Việt Nam trong việc bảo vệ chủ quyền, quyền chủ quyền của
Việt Nam trên Biển Đông.
PV: Xin Tiến sỹ
phân tích rõ đâu là cơ sở pháp lý cho thấy vùng biển phía Nam Biển Đông, khu
vực mà Trung Quốc đang có hành vi vi phạm thuộc chủ quyền của Việt Nam?
TS Phạm Lan Dung: Người phát ngôn của Bộ Ngoại giao
Việt Nam đã nêu rõ, vùng biển ở phía Nam Biển Đông của Việt Nam mà nhóm tàu
Hải dương 08 của Trung Quốc đã vi phạm là vùng biển hoàn toàn thuộc quyền chủ
quyền của Việt Nam. Vị trí xảy ra hành vi vi phạm nằm cách bờ biển Việt Nam không
quá 200 hải lý, tức là hoàn toàn ở trong phạm vi vùng đặc quyền kinh tế và
thềm lục địa của Việt Nam.
Trong khi đó, Trung Quốc không có một cơ sở pháp lý nào để có thể
yêu sách ở vùng biển này. Bởi vị trí đó cách đảo Hải Nam của Trung Quốc gần
500 hải lý, không nằm trong bất kỳ một phạm vi nào mà UNCLOS và luật pháp
quốc tế cho phép.
Theo phán quyết của Tòa Trọng tài trong vụ Philippines-Trung Quốc
thì các thực thể ở Trường Sa, không có thực thể nào có thể có vùng biển quá
12 hải lý. Việc Trung Quốc đang chiếm đóng bất hợp pháp các thực thể ở Trường
Sa cũng không thể đem đến bất kể cơ sở nào để Trung Quốc có thể yêu sách vùng
biển ở Nam Biển Đông mà xảy ra hành vi vi phạm. Hơn nữa, quần đảo Trường Sa
không phải là một quốc gia quần đảo cho nên cũng không thể có đường cơ sở
quần đảo ở đây được.
Cuối cùng, việc Trung Quốc tuyên bố có chủ quyền đối với một số
bãi san hồ ngầm ở Nam Biển Đông này hoàn toàn không có cơ sở pháp lý nào, bởi
theo UNCLOS, thì những bãi ngầm này nằm ở trong vùng đặc quyền kinh tế và thềm
lục địa của quốc gia nào thì nó sẽ thuộc quyền chủ quyền của quốc gia đó. Vì
vậy, Việt Nam có quyền chủ quyền đối với vùng đặc quyền kinh tế và thềm lục
địa của mình.
PV: Thời gian
qua, nhiều nước trong khu vực và trên thế giới đều bày tỏ quan ngại trước
những báo cáo về việc Trung Quốc liên tục có các hành vi vi phạm vùng đặc
quyền kinh tế và thềm lục địa Việt Nam ở khu vực phía Nam Biển Đông. Bà có
nhận định gì về phản ứng của cộng đồng quốc tế?
TS Phạm Lan Dung: Việc các nước trên thế giới lên
tiếng phản đối hành vi vi phạm pháp luật quốc tế của một quốc gia là một
trong những biện pháp mà các nước thường hay làm, từ góc độ của chính trị
quốc tế. Việt Nam cũng như bất kỳ quốc gia nào trong hoàn cảnh này đều mong
muốn các nước lên tiếng bảo vệ chính nghĩa. Càng nhiều nước có tiếng nói càng
mạnh để lên án hành vi vi phạm của Trung Quốc và bảo vệ lợi ích của Việt Nam
càng tốt.
Từ góc độ luật quốc tế, tiếng nói của dư luận tiến bộ trên thế
giới cũng là một trong những biện pháp đảm bảo thi hành luật và nó cũng là
biện pháp tác động đến hành vi của các nước.
Ở đây chúng ta thấy việc Trung Quốc vi phạm vùng biển hoàn toàn
thuộc vùng đặc quyền kinh tế và thềm lục địa của Việt Nam và không phải là
vùng biển tranh chấp. Đó cũng là một trong những lý do làm cơ sở pháp lý để
cho các nước có thêm cơ sở lên tiếng bảo vệ chính nghĩa.
Nguyên tắc chung của các nước trên thế giới là không can thiệp
vào những tranh chấp về chủ quyền lãnh thổ, là những tranh chấp mà ở đó các
nước không có lợi ích và không có yêu sách. Tuy nhiên, với những tranh chấp,
sự cố xảy ra ảnh hưởng đến lợi ích của họ như tự do hàng hải, Biển Đông là
khu vực mà ở đó có các tuyến hàng hải quốc tế rất quan trọng, thì các nước
đều lên tiếng phản đối và đều có cơ sở để mà có thể lên án và yêu cầu ngừng
các hành vi vi phạm.
PV: Trước những
âm mưu, thủ đoạn và hành động ráo riết hướng tới độc chiếm Biển Đông của
Trung Quốc, thì Việt Nam có thể làm gì để bảo vệ chủ quyền, quyền chủ quyền
của Việt Nam trên Biển Đông?
TS Phạm Lan Dung: Việt Nam là một quốc gia thành
viên UNCLOS và chủ trương của Việt Nam là sẽ kiên trì, sử dụng các biện pháp
hòa bình để giải quyết các tranh chấp. Trên thực địa, chúng ta phải sử dụng
những biện pháp kiên quyết nhưng cũng rất kiềm chế, để làm sao tuân thủ pháp
luật, đảm bảo phù hợp với những quy định của UNCLOS, pháp luật quốc tế và phù
hợp với luật pháp của Việt Nam.
Về mặt ngoại giao, chúng ta thấy người phát ngôn của Bộ Ngoại
giao Việt Nam đã nêu rõ, Việt Nam đã có nỗ lực không ngừng trao đổi quan điểm
với Trung Quốc ở nhiều cấp độ khác nhau. Hiện Việt Nam đã rất kiên trì nỗ lực
thực hiện những biện pháp đàm phán và trao đổi quan điểm với phía Trung Quốc.
Đây cũng là một trong những điều kiện đầu tiên mà các quốc gia cần phải làm
trước khi muốn đưa vụ việc ra giải quyết ở các cơ quan tư pháp.
Các bước đi mà chúng ta thực hiện là rất phù hợp với luật pháp
quốc tế và đó cũng là sự chuẩn bị rất cẩn thận, nghiêm túc để đảm bảo các
biện pháp ngoại giao có hiệu quả cao nhất. Ngay cả khi các biện pháp ngoại
giao không có hiệu quả nữa, thì đó cũng là cách mở đường cho khả năng tiến
hành các biện pháp pháp lý nếu thấy cần thiết.
|
Chủ Nhật, 18 tháng 8, 2019
Đăng ký:
Đăng Nhận xét (Atom)
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét