Chứng lý không thể chối cãi về chủ quyền biển của VN
Cập nhật lúc 09:08
Hệ thống bản đồ cổ thể hiện chủ quyền xuyên suốt của VN đối với các quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa ở Biển Đông ít nhất từ thế kỷ 15.
Đại Nam nhất thống toàn đồ của
tác giả Phan Huy Chú (1834). Nguồn ảnh: Tạp chí Phương Đông
Trung Quốc đưa
quân cưỡng chiếm toàn bộ Hoàng Sa năm 1974 và một phần Trường Sa năm 1988. Từ
đó đến nay, nước này liên tục ngang ngược tiến hành hàng loạt biện pháp nhằm
củng cố hiện diện dân sự lẫn quân sự phi pháp tại các quần đảo của VN, nhất
là trong những năm gần đây, dựa trên yêu sách “đường lưỡi bò” phi lý, bất
chấp sự phản đối quyết liệt từ VN lẫn cộng đồng quốc tế.
Gần đây nhất, Trung Quốc còn đưa nhóm tàu khảo sát Hải Dương Địa chất 8 vi phạm vùng đặc quyền
kinh tế và thềm lục
địa VN ở khu vực phía nam Biển Đông. Từ dùng vũ lực chiếm đóng, tuyên bố chủ
quyền trái phép cho đến bồi đắp, quân sự hóa, tập trận phô trương sức mạnh,
Trung Quốc đang ngang nhiên triển khai ý đồ chiếm trọn phần lớn Biển Đông, vi
phạm nghiêm trọng chủ quyền của VN và bất chấp các chứng lý lịch sử.
Theo
các tài liệu của Tạp chí Phương Đông thuộc Viện Nghiên cứu phát triểnPhương Đông (trực thuộc
Liên hiệp Các hội khoa học và kỹ thuật VN), đã có hàng trăm cuộc đàm phán đa
phương, song phương với Trung Quốc về chủ quyền biển đảo và các chứng cứ về
chủ quyền biển đảo của các nước đều đã được các quốc gia công bố. VN trong
nhiều năm nay liên tục đưa ra các bằng chứng không thể chối cãi về biển đảo
của mình trong các cuộc thảo luận song phương với Trung Quốc và công bố quốc tế. Mới đây, tạp chí Phương
Đông đã nghiên cứu và tập
hợp các nguồn tài liệu thu thập từ trong và ngoài nước nhằm có cách nhìn hệ
thống hơn đối với các bằng chứng về chủ quyền biển đảo của VN. Các bản đồ và
thông tin được thể hiện trong bài viết Bản đồ và thư tịch chứng minh VN có chủ quyền
trên hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa của tác giả Thế Anh.
Bản đồ VN do người phương Tây vẽ năm 1749. Hoàng Sa và Trường Sa mang
tên chung là Paracel thuộc Đàng Trong
Liên tục khẳng định
chủ quyền
Một
trong những bản đồ từ thời xa xưa thể hiện chủ quyền VN ở Biển Đông là tấmBản đồ Đại Việt quốc trong tập Hồng
Đức Bản đồ, được vẽ vào
thế kỷ 15 dưới thời vua Lê Thánh Tông. Bản đồ này thể hiện đầy đủ 13 đơn vị
hành chính khi đó, gọi là 13 thừa tuyên, đồng thời có mô tả quần đảo Hoàng
Sa. Theo nhà nghiên cứu Nguyễn Đình Đầu thì Hồng Đức Bản đồ cho thấy người
Việt đã khám phá và khai thác tại khu vực quần đảo Hoàng Sa từ thời Lý, Trần.
GS-TS Trương Minh Đức cũng xác định tấm Bản đồ Đại Việt quốc trong tập Hồng
Đức Bản đồ được vẽ từ thế
kỷ thứ 15 (1490) có miêu tả quần đảo Hoàng Sa. “Điều này chứng tỏ từ thế kỷ
15 nhà nước Đại Việt đã khai thác Hoàng Sa và triều Lê đã thể hiện Hoàng Sa
trong cương giới của mình”, Tạp chí Phương Đông dẫn lời ông nêu rõ.
Cũng
theo nhà nghiên cứu Nguyễn Đình Đầu, người Việt đã khai thác và làm chủ Biển
Đông từ thời Lý, Trần, còn các chúa Nguyễn lập đội Hoàng Sa và Bắc Hải để
hành động tại quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa là tiếp nối truyền thống và táikhẳng định chủ quyền trên Biển Đông.
Các chuyên gia cho rằng Hồng Đức Bản đồlà bộ Atlas đầu tiên của
VN thể hiện sự quản lý chặt chẽ lãnh thổ và lãnh hải ở Biển Đông.
Từ
thế kỷ 15 nhà nước Đại Việt đã khai thác Hoàng Sa và triều Lê đã thể hiện
Hoàng Sa trong cương giới của mình
GS-TS Trương
Minh Đức
Đến
thời vua Lê Hy Tông (1676 - 1705), ông Đỗ Bá, hiệu Công Đạo, soạn tấm bản đồ
xứ Quảng Nam, vẽ theo kỹ thuật truyền thống với phía tây ở trên và hướng bắc
ở tay phải. Bản đồ này nằm trong Toàn tập An Nam lộ và có ghi “Bãi Cát Vàng” bằng chữ
Nôm, được mô tả nằm ngoài khơi phía đông phủ Tư Nghĩa, thuộc xứ Quảng Nam.
Năm
1686, chúa Trịnh Căn lệnh cho ông Đỗ Bá vẽ một bản đồ tổng hợp trên cơ sở của
tất cả các bản đồ nước ta từ thế kỷ 15, có tu chính và cập nhật. Bản đồ mới
này gồm luôn cả Toàn tập An Nam lộ mà ông đã vẽ trước đó và đặt tên chung là
Toàn tập Thiên Nam tứ chí lộ đồ thư. Trong toàn tập này có bản đồ H.Bình Sơn,
Quảng Ngãi; ở phía đông H.Bình Sơn có vẽ quần đảo Cát Vàng và được mô tả như
sau: “Giữa biển có một dải cát dài, gọi là Bãi Cát Vàng, dài độ 400 dặm, rộng
20 dặm đứng đúng giữa biển, từ cửa biển Đại Chiêm đến cửa Sa Vĩnh. Mỗi lần có
gió tây nam thì thương thuyền các nước đi ở phía trong trôi dạt ở đấy. Gió đông
bắc thì thương thuyền đi ở phía ngoài cũng trôi dạt vào đấy đều bị chết đói
hết cả, hàng hóa vứt bỏ nơi này. Họ Nguyễn mỗi năm vào tháng cuối mùa đông
đưa 18 chiếc thuyền đến đấy lấy hàng hóa, được phần nhiều là vàng bạc, tiền
tệ, súng đạn. Từ cửa Đại Chiêm đến đấy mất một ngày rưỡi. Từ cửa Sa Kỳ thì
chỉ mất một ngày”.
Một
số người dạt vào đây khi trở về họ mô tả lại quần đảo Cát Vàng này gần giống
như chú dẫn của ông Đỗ Bá viết ở trên. Chẳng hạn, năm 1701, đoàn giáo sĩ Thừa
sai sang Trung Quốc kể lại trong các bức thư gửi về châu Âu về việc con tàu
Amphitrite của họ mắc kẹt ở quần đảo này. “Paracel là một quần đảo thuộc đế
quốc An Nam. Đó là những bãi đá rất đáng sợ, rộng lớn hơn 100 hải lý. Một cơn
gió lớn có thể làm đắm tàu bất cứ lúc nào. Quần đảo Paracel nằm gần bờ biển
nước CoChinChine (An Nam)”, bức thư viết. Theo các chuyên gia, Paracel được
mô tả chính là Bãi Cát Vàng trong Toàn tập Thiên
Nam tứ chí lộ đồ thư và
các nhà truyền giáo biết rõ nó thuộc đế quốc An Nam.
Hồng Đức Bản đồ năm 1490 có quần đảo Hoàng Sa
Vào thế kỷ 18, Đoan Quận công Bùi Thế Đạt
biên soạn cuốn bản đồ Giáp
Ngọ niên bình Nam đồ. Cũng như các bản đồ khác như Thiên
Hạ bản đồ, An Nam Bình thắng đồ phụ Nam Bắc xứ đồ, bản đồ đều vẽ theo
kiểu truyền thống với phương Đông ở phía dưới. Trong các bản đồ trên, ở phía
dưới đều có vẽ và ghi tên quần đảo Hoàng Sa, gọi là Cát Vàng hoặc Cồn Vàng,
Cát Vàng xứ. Một số bản đồ khác được vẽ từ đầu thế kỷ 19 như Thiên
tai nhan đàm Nam Việt bản đồ, An Nam dư địa chí... cũng đều vẽ một thực thể ở ngoài
khơi phía đông Quảng Nam có tên là Bãi Cát Vàng, Hoàng Sa Chử, Bãi Cát Vàng
nhỏ...
Vào
cuối thời Tự Đức (1848 - 1883), 2 nhà giáo dục là Phạm Vọng và Ngô Thế Vinh soạn và
cho khắc in cuốn sách Khải đồng thuyết ước vào năm 1881 để dạy học.
Trong sách có bản đồ Bản Quốc địa đồ thể hiện bãi cát gọi là Hoàng
Sa Chử ở ngoài khơi biển Quảng Nam. Một bản đồ khác cũng tên là Bản
Quốc địa đồtrong tập niên khảo địa lý Nam Việt địa dư trích lục vẽ đảo tên Hoàng Sa Chử ở phía đông
Quảng Nam. Ngoài ra, các bản đồ cổ của VN khác được vẽ ra từ thế kỷ 15 cho
đến thế kỷ 19 đều ghi rõ thực thể địa lý ở trong cương vực quản lý của VN với
tên gọi Cát Vàng, Bãi Cát Vàng, Vạn Lý Hoàng Sa Châu và Trường Sa Châu. Đó là
chính là 2 quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa.
Sau
khi thống nhất đất nước, vua Gia Long vào năm 1816 cho thị sát Hoàng Sađể tái khẳng định chủ quyền
mà VN vốn có từ lâu trên quần đảo này. Đến thời vua Minh Mạng, sách sử nhà
Nguyễn ghi rằng hằng năm Bộ Công phải cho người ra khảo sát đo đạc và ghi lên Đại
Nam nhất thống toàn đồ đệ
trình để nhà vua ngự lãm. Việc vẽ bản đồ như vậy do nhà nước phong kiến phái
khiển nên Đại
Nam nhất thống toàn đồ là
bản đồ chính thức của nhà nước, biểu hiện việc hành xử chủ quyền ở Biển Đông.
Trên bản đồ, 2 quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa được vẽ tách biệt. Đến thời
hiện đại, Sách trắng của VNCH công bố tháng 3.1975 dẫn chứng sách Hoàng
Việt Địa dư chí của Phan
Huy Chú ấn hành năm Minh Mạng thứ 16 (1834) có vẽ Đại
Nam nhất thống toàn đồ có
ghi rõ hình thể và vị trí hai quần đảo Hoàng Sa và Vạn Lý (tức Trường Sa)
trong lãnh hải VN.
An Nam đại quốc họa đồ do giám mục Jean-Louis
Taberd xuất bản năm 1838
Phương Tây công nhận
Năm
1650, giáo sĩ Alexandre de Rhodes, một người rất am hiểu VN truyền giáo cả ở
Đàng Ngoài và Đàng Trong và là một trong những người sáng tạo bộ chữ Quốc
ngữ, xuất bản tại Roma (Ý) cuốn sách Renu Annem, trong đó có bản đồVương quốc An Nam. Tạp chí Phương
Đông dẫn lời GS Nguyễn
Đình Đầu nhận xét bản đồ này, còn được gọi là bản đồ Đắc Lộ 1650, cơ bản
dựa vào Hồng Đức Bản
đồ nhưng được cập nhật
nhiều chi tiết hơn và rất có giá trị để chứng minh chủ quyền của VN đối với 2
quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa. Trong đó, giáo sĩ de Rhodes dùng chữ Quốc ngữ
để ghi các địa danh trên bản đồ và vẽ quần đảo Hoàng Sa, Trường Sa gần vĩ
tuyến 16 là rất chính xác.
Vào
thời vua Minh Mạng, giám mục người Pháp Jean-Louis Taberd (1794 -1840) thuộc Hội
Thừa sai Paris xuất bản một cuốn tự điển Latin - An Nam tại Ấn Độ, trong đó
có tấm bản đồ An Nam đại quốc họa đồ. Bản đồ thể hiện
Hoàng Sa và Trường Sa ở phía trên vĩ tuyến 16 và chú thích Hoàng Sa là
“Paracel hay Cát Vàng”. Một linh mục VN từng cộng tác với ông Taberd đã mang
tự điển và bản đồ về nước. An Nam đại quốc họa đồ được vẽ một cách khoa học và
chính xác nên năm 1862 được tái bản tại Paris để cung cấp thông tin cho quan
chức Pháp tại Đông Dương. Cựu viên chức ngoại giao Mỹ Harold E.Meinhei, một
chuyên gia về châu Á, đánh giá rất cao bản đồ này về mặt chứng cứ hậu thuẫn
cho VN đấu tranh với Trung Quốc về chủ quyền hai quần đảo Hoàng Sa và Trường
Sa.
Mặt
khác, vào thế kỷ 16, các nước phương Tây đua nhau thám hiểm các vùng biển xa
để tìm kiếm hương liệu, thị trường và chiếm thuộc địa, trong đó có Hà Lan, Bồ
Đào Nha, Tây Ban Nha và Anh. Từ thế kỷ thứ 16, người Bồ Đào Nha đã khám phá
quần đảo nằm ngoài khơi phía đông của Đàng Trong và đặt tên những đảo này là
“Parcel” (nghĩa là đá ngầm) rồi sau thành “Pracel”. Bản đồ của nhà thám hiểm
và bản đồ học Diogo Ribeiro vẽ trong nửa đầu thế kỷ 16 ghi rõ “Pracel” là của
VN. Do nhu cầu đi lại rất nhiều từ thế kỷ 15 -17, người Bồ Đào Nha và Hà Lan
vẽ hàng ngàn bản đồ về vùng biển Đông Nam Á, tất cả đều ghi Pracel là của VN.
Tương
tự, nhiều bản đồ khác gọi Hoàng Sa bằng tên tiếng Hà Lan là “Paracels” hoặc
gọi chung Hoàng Sa - Trường Sa bằng tên “Paracel” (không có chữ “s” - NV) và
các nhà hàng hải, địa lý luôn đề cập Paracels/Paracel thuộc hải phận Vương
quốc Đàng Trong. Trong số này có Bản đồ Đông Dương (Carte de La Penisula
Indochinoise) do nhà địa
lý Hà Lan Frere Van Langren vẽ và được Công ty Đông Ấn Hà Lan phát hành năm
1595. Bên cạnh đó, còn nhiều bản đồ khác được ấn hành trong khoảng 1630 -
1650 như Bản
đồ Merian (1650) vẽ 2 quần
đảo của VN riêng biệt: Hoàng Sa ngoài khơi Đà Nẵng, còn Trường Sa ngoài khơi
Bà Rịa-Vũng Tàu ngày nay.
Đến
cuối thế kỷ 19, nhiều nhà địa lý Pháp, Anh, Đức, Bỉ, Mỹ soạn thảo và ấn hành
bản đồ vùng Đông Nam Á. Tất cả đều ghi quần đảo Paracels (Hoàng Sa) và Trường
Sa của VN. Đặc biệt thời kỳ này, các nhà hàng hải, nhà nghiên cứu địa lý đã
phân biệt rõ ràng Hoàng Sa và Trường Sa. Cụ thể, bản đồ Partie
de la Cochinchine của
Philippe Vandermaelen xuất bản tại Brussels vào năm 1827 vẽ Hoàng Sa với tọa
độ khá chính xác (16 - 17 độ vĩ bắc, 109 - 111 độ kinh đông). Nhà địa lý
người Bỉ này cũng ghi khá rõ các điểm quan trọng trên bờ biển Vương quốc Đàng
Trong và khẳng định Hoàng Sa thuộc VN.
Bằng chứng khách quan
Theo
Tạp chí Phương Đông, bản đồ của các nhà hàng hải phương Tây nhằm phục vụ nhu
cầu đi lại buôn bán và tìm kiếm thuộc địa nên tính khách quan rất cao. “Giai
đoạn cuối thế kỷ thứ 18, đầu thế kỷ thứ 19 là thời gian chủ nghĩa thực dân
đang cực thịnh và khoa học kỹ thuật của phương Tây, kể cả khoa học về hàng
hải và địa lý, kỹ thuật về bản đồ đều có bước tiến khá cao. Chính trong thời
gian này phương Tây đã tạo ra các sản phẩm mà ngày nay chúng ta có thể thu
nạp để làm vững chắc thêm lập luận của chúng ta về chủ quyền của VN ở Biển
Đông, cụ thể là hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa”, tạp chí này phân tích.
Đáng
chú ý nhất trong số này là bộ Atlas thế giới Brussels 1827 với 4 tấm bản đồ thể
hiện chủ quyền của VN đối với quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa. Bên cạnh đó là
Bản đồ chính xác của Công ty Đông Ấn xuất bản tại Anh năm 1805, Bản đồ Đông
Dương (1808, Anh), Bản đồ Địa lý, Niên biểu Lịch sử và Gia phả Lavoisme
(1820, Mỹ) hay bản đồ về Đông Dương được Tạp chí Scottish Geographical
Magazine xuất bản năm 1886.
(Theo Thanh
Niên) Khánh An
|
Thứ Ba, 20 tháng 8, 2019
Đăng ký:
Đăng Nhận xét (Atom)
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét