Hàng
triệu tỷ đồng trong ‘hộp đen’: Bao giờ dân được biết?
Cập nhật lúc 08:26
Một khối tài sản hàng triệu
tỷ đồng đang nằm trong những “hộp đen” cần phải được công khai, minh bạch,
chịu sự soi rọi của xã hội, sự giám sát của thị trường, công chúng, báo chí.
LTS: Theo chương trình, thứ 2 ngày 28/5, Quốc hội thảo luận báo
cáo giám sát việc thực hiện chính sách, pháp luật về quản lý, sử dụng vốn,
tài sản nhà nước tại doanh nghiệp và cổ phần hóa DNNN giai
đoạn 2011-2016. Xung quanh vấn đề này, Tuần Việt Nam giới thiệu bài viết dưới
đây của tác giả Nguyễn Đức Lam.
Một doanh
nghiệp tư nhân mua DNNN nằm trên mảnh đất vàng, có giá trị vô hình, với giá
bị "dìm" xuống ở mức rẻ mạt. Đây chỉ là một trường hợp điển hình
cho những lùm xùm, bất cập trong việc quản lý, sử dụng vốn, tài sản nhà nước
tại doanh nghiệp, cho thấy những vấn đề mấu chốt của lĩnh vực này, từ những
chuyện kỹ thuật như định giá doanh nghiệp, giá trị thương hiệu, giá trị vô hình,
chọn nhà đầu tư chiến lược; chuyện công khai, minh bạch, trách nhiệm giải
trình, cho đến những vấn đề về quan niệm, tư duy…
Những cái mất đi
Quá trình cổ
phần hóa Hãng phim truyện Việt Nam đã trở nên “nổi tiếng” với nhiều vấn
đề ở tất cả các khâu: Mục đích của cổ phần hóa dường như chỉ bán cổ phần thu
tiền; chọn một đối tượng chiến lược không phù hợp; định giá doanh nghiệp quá
thấp, trong đó có vấn đề về giá trị quyền sử dụng đất; giá trị thương hiệu
bằng 0 chỉ vì nhiều năm trước đó không chi cho quảng bá hình ảnh; lợi ích của
người lao động, các nghệ sỹ không được quan tâm, không được hỏi ý kiến; tiến
trình CPH không minh bạch, không đúng quy định v.v… Nhưng tại sao người ta
vẫn làm được, điều gì đã bị bỏ qua, và tại sao hiện giờ lại khó xử lý?
Trong nhiều
trường hợp tương tự như vậy, vốn, tài sản nhà nước (thực ra là tài sản quốc
gia) đã bị thất thoát, chảy vào túi của một nhóm người, mà không phải vào
ngân khố quốc gia. Không chỉ là tiền, đó còn là giá trị từ đất đai ngày càng
khan hiếm; giá trị thương hiệu; sở hữu trí tuệ; tiềm năng phát triển, và
những yếu tố vô hình khác. Không những thế, đó còn là chi phí cơ hội - phí
tổn mất đi do không làm được thứ tốt nhất; đối chiếu, so sánh với những thứ
tốt nhất có thể mang lại.
Chẳng hạn như
Công ty lọc hóa dầu Bình Sơn trong đợt IPO đầu năm 2018 đã bán được số lượng
cổ phần lớn, với giá gấp rưỡi giá khởi điểm, được nhiều người cho là thành
công. Tuy nhiên, cũng có những chuyên gia đặt câu hỏi, liệu có thể thành công
hơn không, khi tính cả giá trị do hàng km bờ biển nằm dọc theo chiều dài của
công ty; tính cả giá trị thực tế và tiềm năng nhờ vị thế độc tôn cả đầu vào
và đầu ra của doanh nghiệp trên thị trường.
Đó là nhìn vào
từng DNNN, còn nếu nhìn tổng thể một cách sâu hơn, có thể có những phát hiện
thú vị đằng sau các con số. Ví dụ, theo thống kê chính thức, đến năm 2017, đã
cổ phần hóa được 96,5% số DNNN, thế nhưng tổng số vốn CPH chỉ được 8%. Còn
lại, 7 tập đoàn kinh tế chiếm 63% số vốn, 76 tổng công ty nhà nước chiếm
28%.
Có nghĩa CPH
thời gian qua mới chỉ về hình thức, còn thực chất vẫn chưa thu hút được nhiều
vốn, nhân lực, công nghệ mới. Để không bỏ sót tài sản quốc gia, cần lưu ý soi
xét, giám sát việc sử dụng vốn và tài sản nhà nước tại những doanh nghiệp
không nằm trong diện định nghĩa chính thức là “doanh nghiệp nhà nước”, các
doanh nghiệp sau khi CPH không còn là DNNN nhưng vốn và tài sản nhà nước vẫn
chiếm tỷ trọng lớn.
Hai hiện tượng “ba trong một” và những “hộp
đen”
Trong vận hành
DNNN ở Việt Nam hiện nay đang có hai hiện tượng “ba trong một”: cơ quan nhà
nước vừa quản lý Nhà nước, vừa đại diện chủ sở hữu, đồng thời quản lý kinh
doanh; có chức năng vừa hoạch định chính sách, vừa điều tiết, vừa chủ quản.
Bên cạnh đó, trong
việc quản lý, sử dụng vốn Nhà nước tại DNNN, đang tồn tại một chuỗi ủy quyền
dài dằng dặc: người dân > cơ quan dân cử > cơ quan hành pháp, hành
chính > HĐQT của DNNN > giám đốc DNNN. Trong chuỗi ủy quyền này, toàn
dân Việt Nam – chủ sở hữu đích thực lại là người ít có thông tin nhất, cách
xa “diệu vợi” với khối tài sản khổng lồ nằm trong DNNN.
Trong khi đó,
những nhân vật quyền lực như giám đốc DNNN nắm nhiều quyền, nhiều thông tin
như hồ sơ CPH, định giá DNNN, lựa chọn nhà đầu tư “cánh hẩu”, thao túng giá
để sau đó nếu không bán được hết thì tự mình mua lại.
Những điều trên
đây tạo ra hiện tượng “hộp đen” trong quản lý, sử dụng khối tài sản quốc gia
nằm trong DNNN, khi mà người chủ sở hữu hầu như không biết được tài sản, tiền
đi đâu, về đâu. Nó cũng làm suy giảm động lực của DNNN phục vụ lợi ích tốt
nhất của doanh nghiệp và người dân, thay vào đó là trục lợi cá nhân. Lãnh đạo
DNNN không phải là chủ sở hữu thực sự, không sợ bị trừng phạt bởi khả năng bị
thâu tóm hay phá sản – tức là không phải chịu kỷ luật của thị trường. Việc ra
quyết định dựa trên các tiêu chí không phải là lợi ích tốt nhất của doanh
nghiệp và người dân – người sở hữu tối thượng của doanh nghiệp.
Để giảm thiểu
rủi ro thất thoát vốn và tài sản nhà nước tại doanh nghiệp, sự công khai, minh
bạch có vai trò mấu chốt. Công khai, minh bạch phải chi tiết, ví dụ như phải
công bố phụ lục danh mục các khoản chi tiêu kèm theo; thời hạn cụ thể. DNNN
phải công bố thông tin cần thiết (báo cáo tài chính có kiểm toán, báo cáo hợp
nhất, báo cáo riêng lẻ, báo cáo quản trị….) để thị trường và toàn xã hội giám
sát thường xuyên.
Khi đó, các nhà
đầu tư tiềm năng sẽ có thông tin đầy đủ, cập nhật để định giá DNNN một cách
chính xác, hiệu quả nhất với chi phí tốt nhất, thay vì tình trạng thiếu minh
bạch tạo kẽ hở cho việc bán doanh nghiệp dưới giá trị thật hoặc không cổ phần
hóa thành công vì không thu hút được nhà đầu tư tiềm năng; giảm thiểu tình
trạng dàn xếp chỉ định thầu tư vấn, tình trạng đấu giá dàn xếp thiếu cạnh
tranh.
Việc xây dựng
một cơ quan quản lý vốn và tài sản nhà nước tập trung có vị thế độc lập, có
năng lực kỹ trị, chuyên môn sâu, tách bạch chức năng quản lý điều tiết hành
chính và chức năng quản trị doanh nghiệp, quản lý kinh doanh sẽ giúp cho việc
giám sát, quản lý việc sử dụng vốn, tài sản nhà nước tại doanh nghiệp hiệu
quả hơn, trách nhiệm giải trình tốt hơn. Tuy nhiên, hiện nay quan điểm, ý
kiến về Ủy ban quản lý vốn nhà nước tại doanh nghiệp đang rất khác nhau. Cơ
quan này cần theo mô hình nào: Công ty quản lý vốn, hay cơ quan quản lý hành
chính?
Nếu theo mô
hình cơ quan quản lý hành chính sẽ thêm một tầng nấc quản lý, chồng chéo với
các cơ quan hiện nay gồm có các bộ, UBND các tỉnh, không rõ phân định trách
nhiệm, quyền hạn như thế nào. Đồng thời, quyền lực của Ủy ban rất lớn, nắm
giữ khối tài sản khổng lồ 5 triệu tỷ VND, khoảng 230 tỷ USD, tức là bằng GDP
hàng năm của Việt Nam. Trong khi đó, năng lực nhân sự, chuẩn mực quản trị
hiện nay không đáp ứng yêu cầu, và đặc biệt không rõ cơ chế kiểm soát, giám
sát cơ quan này như thế nào. Tất cả những điều này gây ra sự lo ngại về khả
năng vận hành hiệu quả của Ủy ban trong thời gian tới.
Nhà nước nên bỏ vốn vào đâu?
Nhìn vào khối
DNNN, nhiều người không khỏi đặt câu hỏi: Nhà nước có cần đầu tư vào những
lĩnh vực như bia rượu, thuốc lá, thủy sản, hay dành đất cho tư nhân? Trả lời
câu hỏi này, có một nguyên lý kinh tế căn bản mà ngay cả nhiều người ngoại
đạo đều biết. Đó là: Nhà nước chỉ nên can thiệp để sửa chữa thất bại thị
trường nhằm tăng cường hiệu quả hay phân phối lại để đảm bảo công bằng.
Thất bại thị
trường xảy ra khi có độc quyền tự nhiên; ảnh hưởng ngoại lai; khi phải cung
cấp dịch vụ và hàng hóa công cộng như an ninh, quốc phòng, bảo vệ môi trường;
khi có rào cản thông tin, không có đủ thông tin cho các bên; khi có bất ổn
định như suy thoái; khi cần lấp khoảng cách giàu nghèo. Điều đó có nghĩa là
nếu không chỉ ra được bằng chứng là thị trường thất bại trong một lĩnh vực
thì tốt nhất không nên để Nhà nước can thiệp vào lĩnh vực đó.
Khi đã thông về
tư duy, đối chiếu với nguyên lý này, có thể loại ra nhiều lĩnh vực Nhà nước
không nhất thiết phải bỏ vốn, tài sản đầu tư kinh doanh, cũng có nghĩa giảm
gánh nặng chi phí, quản lý, giảm rủi ro thất thoát, tham nhũng, lạm dụng
quyền lực. Những DNNN không cần nhà nước tiếp tục nắm giữ 100% vốn phải được
cổ phần hóa và chuyển sở hữu cho khu vực tư nhân, các nhà đầu tư chiến lược,
nhà đầu tư nước ngoài có năng lực quản trị điều hành tốt hơn.
Mặt khác, nhiều
chuyên gia, nhà đầu tư thắc mắc, CPH khác gì tư nhân hóa? Đằng sau từ ngữ
này, ẩn giấu một rào cản về tư duy: có sự e ngại rằng, nếu dùng tư nhân hóa
thì không thể hiện được vai trò nòng cốt của DNNN và chủ đạo của KTNN. Thế
nhưng, vì chỉ nghĩ đến từ cổ phần hóa, cho nên dường như người ta chỉ lo làm
sao bán được cổ phần, thu tiền về.
Trong khi đó,
như đã nói, đây là quá trình chuyển giao hình thức sở hữu để đạt nhiều mục
tiêu: vừa giảm gánh nặng của Nhà nước ở những nơi không cần can thiệp, đồng
thời thu hút vốn, nhân lực, mô hình quản trị mới, công nghệ mới. Không những
thế, nhiều DNNN bên cạnh việc kinh doanh còn phải gánh vai trò công cụ ổn
định kinh tế vĩ mô. Đây là một vướng mắc khác về mặt tư duy trong ứng xử với
DNNN, khiến cho bản thân DNNN lúng túng trong hoạt động, cái cớ để trốn tránh
trách nhiệm, gây khó khăn trong việc giám sát từ bên ngoài.
Một khối tài
sản hàng triệu tỷ đồng đang nằm trong những “hộp đen” cần phải được công
khai, minh bạch, chịu sự soi rọi của xã hội, sự giám sát của thị trường, công
chúng, báo chí.
Đặc biệt, tại
kỳ họp này, Quốc hội sẽ xem xét, thảo luận báo cáo giám sát chuyên đề về quản
lý, sử dụng vốn, tài sản Nhà nước tại doanh nghiệp và cổ phần hóa DNNN. Quốc
hội, HĐND với vai trò giám sát, lập pháp có thể làm được nhiều việc để làm
sao tài sản khổng lồ của quốc gia được dùng vào đúng việc, đúng cách. Trong
đó, bên cạnh những giải pháp mang tính kỹ thuật, chuyên môn, trước hết cần
thông suốt về tư duy, quan niệm.
(Theo VietNamNet) Nguyễn Đức Lam
|
Thứ Hai, 28 tháng 5, 2018
Đăng ký:
Đăng Nhận xét (Atom)
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét