TS Lê Xuân Sang: Formosa được nuông chiều quá mức
Cập nhật lúc
08:39
(Doanh nghiệp) -
“Formosa sau khi được “trải thảm đỏ Ba Tư” đón tiếp còn được nuông chiều
theo kiểu “nâng như nâng trứng, hứng như hứng hoa”.
Đó là chia sẻ của TS Lê Xuân Sang - Phó Viện trưởng Viện kinh tế Việt
Nam với Đất Việt trước thông tin Cục thuế tỉnh Hà Tĩnh đã giải quyết hoàn
thuế GTGT cho Formosa Hà Tĩnh gần đây. Dưới đây là nội dung cuộc phỏng vấn.
PV: - Trong
báo cáo vừa trình Bộ tài chính, Tổng cục Thuế cho biết, từ năm 2014 đến tháng
5/2016, Cục thuế tỉnh Hà Tĩnh đã giải quyết hoàn thuế GTGT cho Formosa Hà
Tĩnh 13.483,4 tỷ đồng (trong đó có 1.459,4 tỷ đồng ghi thu ngân sách, ghi chi
hoàn thuế).Bên cạnh đó, công ty này cũng nhận được nhận hàng loạt ưu đãi khác
sau sự kiện xô xát xảy ra ngày 13/5/2014.
Ông bình luận như thế nào về sự kiên trên? Theo ông, đây có phải là
minh chứng cho việc các doanh nghiệp FDI được hưởng quá nhiều ưu đãi?
TS Lê Xuân Sang: - Như ta đã biết, Formosa là một trường hợp hiếm có. Ngành thép tuy
không phải là ngành được khuyến khích (luyện thép là ngành công nghệ không
cao, có rủi ro lớn trong gây ô nhiễm môi trường, tiêu tốn nhiều năng lượng;
đặc biệt, doanh nghiệp được cấp phép đầu tư trong bối cảnh đã được cảnh báo
về rủi ro môi trường và tai tiếng của doanh nghiệp này. Dẫu vậy, Famosa vẫn
được “trải thảm đỏ Ba Tư” ở Việt Nam, nhất là thời gian cấp phép hoạt động
lên tới 70 năm.
Việc Cục thuế Hà Tĩnh hoàn thuế GTGT và đền bù nếu đúng như con số
trên là rất lớn, lại thực hiện trong trong thời gian ngắn (so với các doanh
nghiệp trong nước và có thể nhanh hơn các doanh nghiệp FDI khác) cho Formosa
lại lần nữa cho thấy, Formosa thậm chí còn được “nâng như nâng trứng, hứng
như hứng hoa”. Hơn nữa, việc Formosa yêu cầu được xây tháp tâm linh, đã
không tạo thuận lợi ngay cho Đoàn kiểm tra Môi trường khi phát hiện sai phạm,
với những phát biểu của người đại diện rất phản cảm… càng cho mức độ chiều
chuộng quá mức doanh nghiệp này.
Sự việc trên cũng phần nào cho thấy công tác quản lý nhà nước của Việt
Nam còn nhiều bất cập trên các phương diện công khai, minh bạch và trách
nhiệm giải trình một cách kịp thời cũng như cách thức thu hút đầu tư FD (tôi
sẽ nói sau).
Vấn đề ở đây là cần công khai, làm rõ hơn cụ thể các khoản hoàn trả
thuế, đền bù,..là từ những khoản nào, giá trị bao nhiêu?
Người đóng thuế Việt Nam bình thường có quyền đặt câu hỏi, Liệu số
tiền thuế tôi đã đóng có liên quan gì không tới những khoản hoàn thuế kếch sù
cho việc nhập khẩu thiết bị lạc hậu, số hóa chất độc hại để xử lý chất
thảicủa Famosa và cho chi phí xử lý chất thải song vẫn còn độc hại và được
chôn, vận chuyển trong lãnh thổ Việt Nam hay không? Đây là những vấn đề
cần làm rõ để vừa tái tạo lòng tin của dân và cộng đồng doanh nghiệp cũng như
xây đắp dần nền quản trị nhà nước công khai, minh bạch và trách nhiệm giải
trình.
Về cách xử lý của Tổng cụ thuế, tôi nghĩ là phù hợp với pháp luật Việt
Nam cũng như các thỏa thuận, công ước đầu tư quốc tế mà Việt Nam tham gia.
PV: - Từ
trường hợp của Formosa, có ý kiến cho rằng Việt Nam rải thảm đỏ để thu hút
FDI nhưng cuối cùng chẳng nhận được gì nhiều mà vô hình chung gây mất công
bằng, ép chết doanh nghiệp vừa và nhỏ trong nước. Ông có đồng tình với một
mức độ nào đó với những nhận định trên hay không?
TS Lê Xuân Sang: Theo
thông tin chưa đầy đủ của tôi, nhìn chung các doanh nghiệp FDI, nhất là công
ty đa/xuyên quốc gia đựợc trải thảm đỏ ở Việt Nam để chào đón và sau đó có
thể được chiều chuộng như tôi đã nói. Sự “mến khách này” đôi khi mang tính
thái quá, không tính đến các lĩnh vực cần ưu tiên thu hút, hay không khuyến
khích.
Nguyên nhân của sự mến khách này chủ yếu có thể do chủ nghĩa thành
tích (mục tiêu công nghiệp hóa-hiện đại hóa) của các địa phương, có phần quan
trọng do mong mỏi có nguồn thu cho NSNN và tạo việc làmở địa phương và các kỳ
vọng về lợi ích cá nhân khác. Thực tế là các tỉnh nghèo, xa các trung tâm
kinh tế và chịu các bất lợi thế khác như Hà Tĩnh thì động lực này càng lớn.
Công bằng mà nói, Formosa đã góp phần quan trọng biến Hà Tĩnh từ tỉnh
phụ thuộc (nhận ròng) vào Ngân sách Trung ương sang tỉnh nộp ròng Ngân sách
cho Trung ương.
Tuy nhiên, cũng không nên đánh đồng các doanh nghiệp FDI lớn trên khía
cạnh có tác động tiêu cực đối với nền kinh tế Việt Nam mặc dù đều được hưởng
ưu đãi lớn.
Hãy so sánh Formosa với Samsung. Ngay từ khi xin phép đầu tư, có thể
thấy Formosacó thể gây rủi ro cho môi trường (doanh nghiệp này đã có nhiều
tai tiếng tại Đài Loan và nhiều nước trên thế giới), có thể đe dọa an ninh
năng lượng, và an ninh kinh tế cho ngành thép Việt Nam.
Công bằng mà nói, tiềm năng và kỳ vọng từ việc doanh nghiệp này trong
xây dựng, cải tạo hệ thống cảng sâu tại Sơn Dương – Vũng Áng (nhằm giảm giá
thành vận chuyển cho Formosa) và có tầm quan trọng khu vực có thể là nguyên
nhân khiến việc quyết cấp phép cho doanh nghiệp này dễ dàng hơn.
Trong khi đó, Samsung cũng được ưu đãi rất lớn, song ngành đầu tư là
công nghệ cao, giá trị gia tăng cao (mặc dù Việt Nam được hưởng không nhiều),
song tác động lan tỏa tích cực tiềm tàng của doanh nghiệp này là lớn hơn
trong dài hạn. Đáng nói là Sumsung đã thành lập Trung tâm R & D, thu hút
các doanh nghiệp công nghiệp hỗ trợ ngày càng tăng cho Việt Nam – điều quan
trọng giúp tác động của FDI tích cực lên doanh nghiệp trong nước. Intel cũng
được ưu đãi lớn và cũng đang theo cách tiếp cận của Samsung đối với nền kinh
tế, doanh nghiệp Việt Nam.
Tóm lại, các doanh nghiệp FDI lớn trong lĩnh vực công nghệ cũng được
hưởng nhiều ưu đãi, tuy vậy đóng góp tổng thể, trong dài hạn có thể là lớn
hơn nhưng ưu đãi mà Việt Nam ưu tiên. Các doanh nghiệp kiểu như Formosa (theo
nghĩa có rủi ro ô nhiễm song được ưu đãi)phải là nhóm doanh nghiệp cần lưu ý
trong quản lý phát thải ô nhiễm. Bài học từ Công ty Vedan, từ việc được tuyên
dương đã ngay sau đó trở thành “tội đồ về môi trường” (đã xử lý vi phạm và
doanh nghiệp sửa sai) đến nay có thể vẫn còn nguyên giá trị.
PV: - Đầu
tư FDI hiện nay vẫn đóng một vai trò quan trọng trong nền kinh tế nước ta.
Tuy nhiên nhìn vào hiệu quả thu hút FDI trong thời gian qua, có thể dễ dàng
nhận thấy, Việt Nam vẫn chưa tạo được sự cạnh tranh bình đẳng, công bằng, mối
liên kết cùng phát triển giữa các doanh nghiệp trong và ngoài nước.
Trong bối cảnh hội nhập hóa, toàn cầu hóa như hiện nay, theo ông chúng
ta cần thay đổi chính sách đối với FDI như thế nào để vừa phát triển kinh tế
vừa hỗ trợ các doanh nghiệp vừa và nhỏ trong nước?
TS Lê Xuân Sang:- Nhìn chung với các nước đang phát triển, nội lực yếu như Việt Nam và
khu vực Đông Nam Á, để phát triển kinh tế phần lớn phải dựa vào FDI. Tuy
nhiên không phải nước nào cũng vậy. Chẳng hạn như Hàn Quốc, năng lực nội sinh
của họ rất lớn. Theo tính toàn của tôi, tính từ năm 1966 đến năm 2014, FDI
vào nước này chỉ tương đương 0,5% GDP, thể hiện nội lực của họ lớn cũng như
sự chú trọng khai thác nội lực và không ỷ lại quá mức vào FDI.
Trong đó thì Trung Quốc, các nước ASEAN, đặc biệt là Việt Nam mức độ
lệ thuộc vào FDI rất lớn.
Với Trung Quốc thì thời gian đầu họ cũng “trải thảm đỏ” để thu hút FDI
nhưng cách đây khoảng 10 năm họ bắt đầu không chào đón nữa, thậm chí một vài
trường hợp họ còn ngược đãi. Dẫu vậy, đến nay, thảm họa môi trường vẫn
còn rất lớn trong đó có sự ‘góp sức’ của FDI.
Từ những kinh nghiệm quốc tế và vấn đề thực tiễn Việt Nam trên, lần
nữa, cho thấy (như tôi đã cảnh báo nhiều lần) đã đến lúc Việt Nam không nên
thu hút đầu tư nước ngoài bằng mọi giá. Chúng ta cần thu hút FDI cẩn trọng
hơn trên các phương diện khác nhau, quan trọng nhất làcần phân tích, xem xét
động cơ chính của nhà đầu tư, nhất là các dự án FDI lớn đến Việt Nam là gì?
Qua đó mới cần xem xét mức độ ưu đãi phù hợp.
Thông thường, FDI vào các nước với 7 động cơ khác nhau. Đầu tiên là
động cơ nâng cao hiệu quả hoạt động, thường là để tận dụng nguồn lao động giá
rẻ. Đây là động cơ phổ biến nhất của FDI vào Việt Nam. Thứ hai là tìm kiếm
thị trường (nhất là quy mô thị trường tiêu thụ). Thứ ba là động cơ tìm kiếm
tài nguyên thiên nhiên (dầu mỏ, nguyên liệu thô). Thứ tư là tìm kiếm tài sản
chiến lược (M&A).
Thứ năm là mục tiêu đầu tư có phải là “đất lành cho dự án ô nhiễm
đậu”hay không? (nơi pháp luật và hiệu lực về phát thải ô nhiễm môi trường
lỏng lẻ, yếu kém). Thứ sáu là liệu rằng chiến lược đầu tư của họ có
phải là chiến lược địa kinh tế hay không? (ví dụ, chiến lược Trung Quốc cộng
(+), Thái Lan cộng (+) nhằm phân tán rủi ro); và cuối cùng (7) là động
cơ chính trị.
Với cách tiếp cận phân loại loại hình động cơ đầu tư này, Formosa là
dự án gang, thép (cần rất nhiều vốn) và rủi ro ô nhiễm cao (độ sạch của chất
thải tỷ lệ nghịch với lợi nhuận) thì động cơ lớn nhất của họ vào Việt Nam có
thể là động cơ 5, sau đó có thể là động cơ 2 và 7. Việc xác định được các
động cơ chủ yếu của các dự án, cùng tiểu sử của DN, có thể giúp chúng ta xác
định mức độ ưu đãi cho doanh nghiệp, tránh ưu đãi quá mức để thu hút.
Vấn đề chính sách thứ hai là ưu đãi về thuế quá mức không phải lúc nào
cần thiết và có công lực để thu hút được luồng vốn. Lý do là nhiều trường
hợp doanh nghiệp FDI vẫn phải trả thuế chi chính quốc rất cao nên “hiệu
lực” của ưu đãi có thể không lớn như ta nghĩ.
Hơn nữa, có thể có trường hợp doanh nghiệp hết hạn ưu đãi lại chuyển
sang tên khác để hưởng ưu đãi nên nguồn thu thuế kỳ vọng sau khi hết ưu đãi
Việt Nam vẫn mãi mãi không thu được như dự tính ban đầu. Bên cạnh dó, những
thủ thuật chuyển giá có thể phát sinh từ việc ưu đãi quá mức này.
Tiếp theo là về dư địa chính sách liên quan tới “ép” DN FDI và hỗ trợ
doanh nghiệp trong nước. Quy chế thành viên WTO và các FTA (nhất là TPP), về
mặt pháp lý (de jure),đã và đang thu hẹp dư địa hỗ trợ chính sách hỗ trợ DN
trong nước và phát triển, bảo hộ ngành, kể cả ép buộc chuyển giao công nghệ.
Tuy vậy về mặt thực tế (de facto), vẫn còn dư địa, song cần phải “tinh vi”
hơn và thông minh hơn để vừa bảo hộ hữu hiệu doanh nghiệp trong nước, vừa
tránh bị nhà đầu tư nước ngoài kiện.
Chính sách FDI trong thời gian tới phải gắn kết và lồng ghép với các
chính sách tái cơ cấu, nhất là tạo ra các mối liên kết, các tác động (xuôi,
ngược và lan tỏa) với các doanh nghiệp trong nước. Trong những lĩnh vực này
thì dư địa vẫn còn.
Biện pháp chính sách quan trọng nhất là xây dựng và thực thi chế tài
xử lý về ô nhiễm môi trườngcó hiệu quả và hiệu lực, tránh bị cộng đồng FDI
coi Việt Nam là “đất lành” cho ô nhiễm môi trường (sự trừng phạt vi phạm
không nghiêm khắc). Với trường hợp Formosa, khi chưa ai kết luận mức thiệt
hại do phát thải ô nhiễm là bao nhiêu tiền thì họ tự động nộp luôn 500 triệu
USD là một sự kiện khá thú vị.
Cuối cùng song quan trọng không kém là để tránh việc thu hút FDI bằng
mọi giá của các địa phương, việc đánh giá thành tích của các chính quyền địa
phương cần quân bình(tương đối) các thành tích như kết quả thu hút FDI, bảo
vệ môi trường, phát triển công nghệ, thu ngân sách nhà nước, tạo việc làm cho
lao động địa phương; tránh việc đánh giá thành tích theo kiểu chung chung là
‘cơ cấu kinh tế chuyển dịch theo hướng công nghiệp hóa, hiện đại hóa’, theo
cách đó, thu hút FDI bằng mọi giá có thể không những đạt mục tiêu này một
cách nhanh nhất mà còn là bình phong che khuất những toan tính trục lợi có
thể khác.
Cùng với việc ký kết và thực hiện tốt TPP, việc thực thi hữu hiệu
những biện pháp trên thì chính sách FDI mới có sức lan tỏa nhiều hơn đến các
nền kinh tế, đặc biệt là giúp doanh nghiệp trong nước liên kết chặt chẽ hơn
với doanh nghiệp nước ngoài, qua đó nâng cao năng lực cạnh tranh. Điều này,
cùng với các chính sách tinh vi và có tầm chiến lược khác, sẽ góp phần quan
trọng giúp doanh nghiệp ngoài quốc doanh Việt Nam trở nên lực lượng trụ cột
thực sự của nền kinh tế trong bối cảnh hội nhập mới.
PV: Xin cảm
ơn TS Lê Xuân Sang đã trao đổi với Đất Việt!
(Theo Đất Việt) Nguyễn Hoàn
Thực trạng đang có cái hay là công chức quản
lý rất ưu ái doanh nghiệp, nhất là doanh nghiệp làm ra nhiều tiền, "chịu
chơi". Tuy nhiên có cái dở là hầu hết doanh nghiệp "chịu chơi"
ấy lại hay làm bậy, vi phạm pháp luật.
Thương Giang
|
Thứ Tư, 17 tháng 8, 2016
Đăng ký:
Đăng Nhận xét (Atom)
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét