Chi 2.000 tỉ, công
bố... 22 bài báo ISI
Cập nhật lúc
09:19
Đầu tư 2.000 tỉ đồng kinh phí hoạt động, tuy
nhiên theo thống kê thì số bài báo ISI mà Viện Hàn lâm Khoa học Xã hội công
bố trong 5 năm qua chỉ vẻn vẹn có 22 bài
Theo thông tin mà nhóm dự án Trắc lượng
khoa học Việt Nam (S4VN) vừa công bố, bảng thống kê ISI (những bài báo được
đăng trên các tạp chí khoa học được công nhận bởi Viện Thông tin Khoa học -
Institute for Scientific Information - ISI) của Viện Hàn lâm Khoa học Xã hội
Việt Nam (VASS) giai đoạn 2011-2015 tổng cộng số lượng bài báo công bố ISI
của VASS trong 5 năm qua là 22 bài (tổng số lượt trích dẫn là 63).
Có năm chỉ công bố 2 bài ISI
Năm có kết quả cao nhất là 2013 với 7 bài
(20 trích dẫn) và năm thấp nhất là 2011 với 2 bài (1 trích dẫn). Trong khi
đó, nghiên cứu sinh (NCS) Lê Ngọc Sơn tại ĐH Công nghệ Ilmenau, Đức, cho hay
số liệu ngân sách nhà nước được Bộ Tài chính công bố cho thấy trong 5 năm (từ
2011 đến 2015), ngân sách nhà nước đã đầu tư cho VASS hơn 2.000 tỉ đồng,
tương đương 90,6 triệu USD. Riêng năm 2015, viện có 5 bài báo công bố quốc tế
ISI và tổng chi phí tiêu tốn lên đến 504,5 tỉ đồng (khoảng 22,67 triệu USD).
Một luận án tại Học viện Khoa học Xã hội
được bảo vệ thành côngẢnh: VASS
Đưa ra những con số thống kê trên, NCS Lê
Ngọc Sơn cho rằng đây là “những con số biết nói”, thậm chí ngay cả khi chưa
cần quan tâm đến chất lượng mà chỉ xét trên góc độ hiệu quả kinh tế và năng
suất lao động. Theo NCS này, trong bối cảnh VASS có tới 2.000 người thì năng
suất này không bằng một nhóm nhỏ các nhà khoa học châu Âu làm việc.
Khi được hỏi chất lượng của các luận án
tiến sĩ, bà Nguyễn Thị Kim Phụng - Vụ trưởng Vụ Giáo dục ĐH, Bộ Giáo dục và
Đào tạo - cho rằng quy chế hiện hành quy định luận án tiến sĩ phải có đóng
góp về mặt lý luận và thực tiễn trong lĩnh vực nghiên cứu hoặc giải pháp mới
có giá trị trong việc phát triển, gia tăng tri thức khoa học của lĩnh vực
nghiên cứu, giải quyết sáng tạo các vấn đề của ngành khoa học hay thực tiễn
kinh tế - xã hội. Trong quy chế có quy định về tiêu chí của luận án và trong
bản nhận xét của những người đánh giá luận án cũng phải đề cập đến các vấn đề
này. Cơ sở đào tạo phải công khai thông tin về việc bảo vệ luận án, toàn văn
luận án chuẩn bị bảo vệ phải được đăng lên trang thông tin điện tử của cơ sở
đào tạo để các nhà chuyên môn và mọi người có thể tham khảo, giám sát, phát
hiện sai sót… góp phần bảo đảm chất lượng đào tạo.
Ai kiểm định chất lượng luận án?
Thế nhưng trên thực tế, nói theo cách của
PGS Lê Trọng Thắng, Trường ĐH Mỏ - Địa chất Hà Nội, bộ đưa ra những quy chế
rất chặt chẽ, như yêu cầu phải công khai luận án chẳng hạn, nhưng việc bộ, bộ
làm; việc trường, trường làm và nhiều khi có những lỗ hổng con voi cũng chui
lọt.
Mai Khoa, một NCS tại Học viện Công nghệ
Hoàng gia Melbourne (Úc), chia sẻ theo thông lệ quốc tế thì hội đồng chấm
luận án bắt buộc phải có thành viên độc lập, đến từ các cơ sở đào tạo khác,
thậm chí nước khác, nhằm bảo đảm sự khách quan trong việc đánh giá. Thêm vào
đó, công bố quốc tế là yêu cầu bắt buộc với NCS của hầu hết các cơ sở đào tạo.
Điều này nhằm bảo đảm kết quả nghiên cứu
được thảo luận, nhìn nhận một cách rộng rãi và khách quan bởi các nhà khoa
học. Việc yêu cầu NCS tham gia các hội thảo quốc tế ngoài sự cần thiết của
học thuật còn tạo cho NCS có cơ hội trao đổi trực tiếp với những nhà khoa học
đầu ngành, từ đó giúp xây dựng mạng lưới đồng nghiệp rộng rãi.
NCS khi bắt đầu khóa học sẽ phải hiểu toàn
bộ quy định sẽ được áp dụng với mình, từ đó họ hiểu số lượng bài báo khoa học
mà mình sẽ phải công bố.
Giáo sư hướng dẫn thường kỳ vọng vào NCS
cao hơn yêu cầu của cơ sở đào tạo thông qua xếp hạng của tạp chí và số công
bố đặt ra cho NCS. Từ đó, NCS cũng có những sức ép nhất định trong việc hoàn
thành luận án. Đã có một tỉ lệ cao về số lượng NCS mắc chứng trầm cảm nhẹ vì
sức ép của việc hoàn thành luận án.
Việt Nam cũng có các quy định về việc công
bố các bài báo khoa học, tuy nhiên quy định này không được triển khai hiệu
quả. Chính sự dễ dãi của người hướng dẫn, của hội đồng đã tạo điều kiện cho
NCS làm luận án qua quýt thì lấy đâu ra đề tài được quốc tế ghi nhận!
Sao chép
tinh vi
NCS Mai Khoa thẳng thắn cho rằng việc sao
chép tài liệu của người khác mà không trích dẫn đã trở thành một hiện tượng
trong các luận án tiến sĩ ở Việt Nam. Việc sao chép này có thể thực hiện từ luận
án của người trước, từ báo cáo khoa học, báo cáo tổng kết của một dự án, thậm
chí ở mức tinh vi hơn là dịch nguyên một phần công trình của một tác giả ở
nước ngoài mà không có trích dẫn cụ thể. Một danh sách các tài liệu tham khảo
dài ở cuối một số luận án nhiều khi chỉ là để đối phó với quy định mà không
cần biết thật sự nó có được dùng vào luận án không, nếu được sử dụng thì nội
dung của nó được nêu trong luận án là ở chỗ nào?
(Theo Người Lao Động) YẾN ANH
|
Thứ Năm, 28 tháng 4, 2016
Đăng ký:
Đăng Nhận xét (Atom)
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét