Những công trường rộn tiếng Hoa
Cập nhật lúc 10:01
“Triệu tấc
đất” của tổ tiên dần dần trở thành tài sản của người khác trong một cuộc
chiến âm thầm – chiến tranh kinh tế - thì nhiều người có thể dễ lãng quên.
Ngày 3/3 The Straits
Times có đăng bài viết của Giáo sư Lu Guangsheng - Đại học Vân Nam về công cụ
“ngoại giao đường sắt” của Trung Quốc, trong đó chủ yếu phân tích về nguyên
nhân các doanh nghiệp Trung Quốc thắng thầu trong các dự án đường sắt cao tốc
tại các quốc gia Đông Nam Á trong thời gian gần đây.
“Đó là một cuộc đua và Trung Quốc cuối cùng
đã vượt qua đối thủ Nhật Bản trong tháng 10/2015, khi các doanh nghiệp Trung
Quốc đã ký một thỏa thuận liên doanh với các đối tác Indonesia về dự án đường
sắt cao tốc Jakarta-Bandung.
Dự án này là một mốc quan trọng trong sự
tiến bộ của chính phủ Trung Quốc trên lĩnh vực "ngoại giao đường
sắt". Trung Quốc đã đạt được thành công ban đầu với ngoại giao đường sắt
của mình, trước hết bởi vì Trung Quốc rất coi trọng ngành đường sắt tốc độ
cao của mình.
Thứ hai, Trung Quốc cho thấy mình có
"đủ chân thành", mà dự án Jakarta-Bandung là một ví dụ. Trung Quốc
đồng ý không sử dụng vốn của chính phủ Indonesia hoặc yêu cầu bảo lãnh của
Chính phủ nước này đối với các khoản vay.
Nói cách khác, Trung Quốc cung cấp khoản
vay đủ 5,5tỷ USD với lãi suất 2%/năm mà không đòi hỏi Indonesia ứng vốn hay
bảo lãnh nợ".
Hiện cũng đã có tiến bộ
trong các dự án đường sắt Trung - Thái, Trung - Lào và dự kiến sẽ khởi công trong năm nay.
Vào tháng 9/2015 chính
phủ Lào đã thông qua một nghị quyết cho việc xây dựng đường sắt Trung - Lào
với chi phí 6,8 tỷ USD. Tháng 11/2015, Nội các Thái Lan đã thông qua dự án
đường sắt Trung - Thái với chi phí 14 tỷ USD.
Qua phân tích cho thấy,
Chính phủ Trung Quốc đã nâng đỡ các đối tác của mình và hỗ trợ họ có thể sử
dụng sản phẩm công nghệ đường sắt cao tốc của Trung Quốc một cách tưởng chừng
"chân thành và đầy nghĩa cử cao đẹp" của những mối quan hệ hợp tác.
Điều đó cùng với việc bị
tung hỏa mù bởi quy trình kinh tế đảo ngược là lý do khiến các đối tác không
thể từ chối bắt tay Trung Quốc.
Với những chiến thắng
trên mặt trận không tiếng súng này cùng những kết quả của việc tái cơ cấu nền
kinh tế, có thể thấy rằng những triết lý và cơ chế nguy hiểm trong chính sách
phát triển kinh tế của Trung Quốc đang là mối nguy hại cho các nền kinh tế
trên thế giới, nhất là những quốc gia láng giềng và thân cận của họ.
Theo tìm hiểu của người viết và qua những
sự kiện diễn ra gần đây trong hợp tác kinh tế của Trung Quốc với nước ngoài,
trong đó có Việt Nam, có thể nhận diện hai hiện tượng nguy hiểm, thể hiện sự
“chân thành” của người Trung Quốc đối với những đối tác thân tình nhưng mục
đích có lẽ không ngoài việc phục vụ ý đồ toàn cục của họ.
Những công trường rộn tiếng Hoa
“Trung Quốc đã trúng thầu bằng cách cung
cấp cho Indonesia một gói tài chính cạnh tranh hơn Nhật Bản. Song điều đáng
chú ý là đường sắt tốc độ cao Jakarta-Bandung dài 150km, tốc độ 250km/h đến
300km/h, áp dụng đầy đủ các tiêu chuẩn của Trung Quốc về công nghệ và thiết
bị. Trung Quốc sẽ quản lý toàn bộ quá trình từ khảo sát, thiết kế, xây dựng
đến vận hành và quản lý khai thác”, theo Giáo sư Lu Guangsheng.
Như vậy là người Trung
Quốc có mặt và nắm giữ vai trò đối với tất cả các khâu của một dự án đầu tư
nước ngoài. Và không chỉ là sự có mặt của các chuyên gia kỹ thuật, những nhà
kỹ trị mà là cả công nhân lao động kỹ thuật cao và thậm chí cả lao động làm
những công việc phổ thông, giản đơn – những công việc thường thuộc về người
lao động bản địa.
Điều ấy đã là một thực tế
và càng ngày càng có nhiều dự án kiểu “bao trọn gói” như vậy của người Trung
Quốc. Những nhà thầu Trung quốc tạo công ăn việc làm cho người Trung Quốc ở
nước ngoài không chỉ là “lợi ích toàn tập” mà nó còn là một kênh góp phần quan
trọng vào việc giải quyết vấn nạn lao động dôi dư của Trung Quốc do tái cơ
cấu kinh tế tạo ra.
Ngay từ năm 2011 – 2012,
khi Chính phủ Trung Quốc xác định và đẩy mạnh tái cơ cấu nền kinh tế, tập
trung vào tiêu dùng nội địa và dịch vụ tài chính, thương mại thì nhịp độ phát
triển của nền kinh tế Trung Quốc giảm nhiệt. Và sau 25 năm bùng nổ, năm 2015
vừa qua tốc độ tăng trưởng của kinh tế Trung Quốc chỉ đạt con số 6,9%.
Con số 6,9% gắn với nhiều
vấn đề kinh tế - xã hội phát sinh mà Bắc Kinh phải giải quyết. Đặc biệt năm
2016 và những năm tiếp theo, dự báo kinh tế nước này vẫn tiếp tục có tốc độ
tăng trưởng giảm, năm sau phát triển thấp hơn năm trước. Điều đó khiến cho
việc giải quyết những hệ quả của nó ngày càng trở thành vấn đề mang tính
chiến lược của Trung Quốc.
Trong số đó có vấn đề đầu
tư nước ngoài và tạo việc làm cho lưc lượng lao động dôi dư do tái cơ cấu
nền kinh tế tạo ra. Khi đầu tư trong nước giảm thì đầu tư nước ngoài của
Trung Quốc tăng để tạo sự cân bằng trong phát triển, nhưng thực ra là tạo ra
đòn bẩy cho hoạt động thương mại và dịch vụ tài chính.
Doanh nhân Trung Quốc ra
nước ngoài làm ăn, ngoài làm tăng giá trị tài sản của Trung Quốc nước ngoài,
còn giải quyết việc làm cho lao động Trung Quốc.
Sau khi “ngoại giao kinh
tế” đi trước, tiếp theo sẽ đến nghiệp vụ kinh tế phát sinh, thể hiện qua việc
người Trung Quốc tham gia hợp tác kinh tế với đối tác bằng hàng loạt những dự
án mà họ là những nhà thầu cung ứng trọn gói các dịch vụ từ khảo sát thiết
kế, tư vấn giám sát, quản lý kỹ thuật đến triển khai gói thầu, sử dụng sản
phẩm và quản lý khai thác.
Nếu như các nhà thầu ở
các quốc gia khác, lực lượng triển khai gói thầu chủ yếu là lao động có trình
độ chuyên môn cao như các chuyên viên, chuyên gia thì với người Trung Quốc,
họ tham gia vào cả những bước công việc, thực hiện những loại công việc có
tính chất giản đơn mà trước đây giành cho công nhân lao động của những quốc
gia là chủ đầu tư.
Vì vậy, đã có nhiều công
trường “rộn tiếng Hoa” ở nhiều quốc gia mà doanh nghiệp Trung Quốc thắng thầu
và triển khai dự án. Nay với việc tái cơ cấu nền kinh tế theo hướng giảm đầu
tư trong nước thì lượng lao động thất nghiệp tại quốc nội là rất lớn.
Bởi vậy, sắp tới sẽ có
làn sóng người Trung Quốc chuyển ra nước ngoài làm việc, cạnh tranh gay gắt
với thị trường lao động thế giới.
Dư luận Việt Nam đã từng
nhiều lần đặt câu hỏi và nghi ngại về hàng ngàn người Trung Quốc làm việc
trên công trường của các dự án mà doanh nghiệp Trung Quốc thắng thầu tại Việt
Nam. Điều đó cho thấy nguy cơ người Việt Nam bị “cướp” mất việc ngay trên đất
nước mình là một thực tế được cảnh báo và đã diễn ra.
Theo báo cáo của Ban quản
lý các Khu kinh tế Hà Tĩnh tháng 10/2014, trong tổng số hơn 5.300 lao động
làm việc tại các công trường của dự án Formosa có 3.680 người Trung Quốc.
Trong dự án Formosa có 92
nhà thầu thi công đến từ Trung Quốc, Đài Loan và chính quyền Hà Tĩnh đồng ý
cho các nhà thầu tuyển dụng 10.820 lao động nước ngoài, để đáp ứng nhu cầu
của họ.
Trong khi đó, trả lời báo chí ngày
9/10/2014, bà Nguyễn Thị Hải Vân, Cục trưởng Việc làm (Bộ Lao động Thương
binh và Xã hội) thì cho hay : "Ở Vũng Áng, thời điểm cao nhất trung
bình cứ 7 người Việt Nam thì có một người nước ngoài làm việc. Thời điểm thấp
nhất tỷ lệ này là 4/1. Như vậy, lao động Việt Nam vẫn là những lao động
chính".
Có lẽ cơ quan quản lý nhà
nước chưa xem vấn đề lao động Trung Quốc tại Việt Nam là đáng báo động.
Hiện nay, ở Việt Nam có
bao nhiêu dự án, bao nhiêu nhà thầu và bao nhiêu người lao động Trung Quốc
đang làm việc tại đó, người viết xin phép chưa đưa ra con số cụ thể, bởi lẽ
nó không chính xác vì còn tình trạng lao động chui, lao động không phép.
Tuy nhiên, chỉ biết rằng những công trường
rộn tiếng Hoa vẫn đang hàng ngày, hàng giờ tạo ra những "đổi thay"
trên đất nước Việt Nam.
Ngoại giao nhà đất
Tại Indonesia, Thái Lan, Lào, nhà thầu
Trung Quốc được đối tác lựa chọn nhờ có sự hỗ trợ của “ngoại giao đường sắt”
khi “Chính phủ Trung Quốc thúc đẩy để thỏa hiệp nhiều lần và cuối
cùng đồng ý cung cấp khoản vay đầy đủ mà không cần vốn đối ứng của đối tác
cũng như bảo lãnh của Chính phủ Indonesia, như trong dự án đường sắt
Jakarta-Bandung.
Bởi lẽ Trung Quốc áp dụng lãi suất khoảng
2%/năm, trong khi Nhật Bản cung cấp một lãi suất thấp đáng ngạc nhiên là
0,1%/năm đối với dự án đó. Điều này cũng làm giảm đáng kể khả năng cạnh tranh
của Trung Quốc với Nhật Bản khi tham gia đấu thầu các dự án đường sắt lớn ở
Đông Nam Á”, theo Giáo sư
Lu Guangsheng.
Nhưng hiện nay, với kinh
tế khó khăn và thời gian hoàn vốn cho dự án rất dài nên những dự án lớn của
Trung Quốc thắng thầu ở nước ngoài sẽ tăng thêm mức độ rủi ro. Vậy nhưng các
doanh nghiệp Trung Quốc vẫn tăng cường hợp tác đầu tư ở nước ngoài, vẫn tham
gia mọi gói thầu mà họ thấy có lợi. Tại sao họ không lo sợ mất vốn, thua lỗ,
thiệt thòi?
Thực ra, Chính phủ Trung
Quốc, doanh nhân Trung Quốc đã nhìn thấy một loại vốn đối ứng cho khoản tiền
“bỏ ra trước” trong việc thi công những công trình mà họ thắng thầu, đó là
nhà và đất. Và “ngoại giao nhà đất” sẽ là một kiểu “ngoại giao kinh tế” mà Chính
phủ Trung Quốc có thể thực hiện để hỗ trợ cho doanh nghiệp Trung Quốc làm ăn
ở nước ngoài.
Hiện tại ở nhiều nước
trên thế giới, trong đó có Việt Nam, hàng ngàn công trình ngàn tỷ, trăm tỷ
phải ngừng thi công vì thiếu vốn, gây lãng phí tiền bạc vô cùng lớn cho người
dân, cho doanh nghiệp và cho nhà nước. Theo giới đầu tư quốc tế, những công
trình đắp chiếu ấy sắp tới có thể là những tài sản đối ứng cho Trung Quốc và
nhiều công trình sẽ lại rộn tiếng Hoa.
Việc đó không có gì là
không thể khi người Trung Quốc có thể định giá “rẻ như cho” những “miếng mồi”
mà trước đây thuộc dạng “đắt sắt ra miếng” và họ chỉ cần hoàn tất là có thể
sử dụng vào mục đích của mình.
Còn với chính phủ và
doanh nghiệp các nước sở tại, nếu được đề nghị đối ứng thì chẳng khác gì nằm
mơ giữa ban ngày. Tưởng chừng như thế là "hai bên cùng có lợi".
Tuy nhiên, việc “nhà đối
ứng công trình” hay “công trình đối ứng công trình” còn gặp khó khăn về thủ
tục và nhất là định giá, do đó thời gian sẽ không thể nhanh được, ảnh hưởng
đến những công trình mới mà doanh nghiệp Trung Quốc thắng thầu, ảnh hưởng đến
sự phát triển của kinh tế - xã hội của một vùng miền hay cả một đất nước.
Do vậy người viết cho
rằng, doanh nhân Trung Quốc sẽ chọn vốn đối ứng là quyền sử dụng đất, ngay cả
đất nông nghiệp hay đất lâm nghiệp, thậm chí cả đất hoang hóa, chứ không cần
đất ở các khu vực đắc địa hay “đất vàng”. Điều này tính khả thi cao và có thể
sớm diễn ra “ngoại giao nhà đất” giữa Chính phủ Trung Quốc với nhiều chính
phủ các quốc gia trên thế giới.
Riêng ở Việt Nam, có lẽ
dư luận chưa quên một dự án giao thông quan trọng bậc nhất của Thành phố Hồ
Chí Minh là dự án vành đai Tân Sơn Nhất – Bình Lợi (nay là đường Phạm Văn
Đồng) đã thực hiện theo phương châm “đổi đất lấy hạ tầng” với nhà thầu chính
Tập đoàn GS Engineering & Construction (GS E&C) – Hàn Quốc, theo báo
cáo của UBND Tp.Hồ Chí Minh.
Dự án Tân Sơn Nhất - Bình
Lợi - Vành đai ngoài đi từ sân bay quốc tế Tân Sơn Nhất qua cầu Bình Lợi và
nối với vành đai ngoài tại Ngã tư Xuân Hiệp. Toàn tuyến dài 13,7 km đi qua 4
quận: Tân Bình, Gò Vấp, Bình Thạnh và Thủ Đức, chiều rộng tuyến từ 30-60m (tương
đương đường 6 - 12 làn xe). Thời gian thi công dự án là 48 tháng kể từ khi
bàn giao mặt bằng
Đây là dự án BT (xây dựng - chuyển giao) đầu tiên do công ty vốn 100% nước ngoài đảm nhận, theo đó Công ty GS E&C sẽ ứng vốn thi công dự án và đổi lấy 7 khu đất tại Quận 2, Quận 9, Quận 10 của Thành phố Hồ Chí Minh với tổng diện tích 100 hecta để GS E&C đầu tư các dự án bất động sản. Tổng trị giá đầu tư cho dự án là hơn 340 triệu USD.
Đến nay, dự án Tân Sơn
Nhất - Bình Lợi đã đưa vào sử dụng. Với một “tiền lệ” như vậy, có lẽ việc
doanh nghiệp Trung Quốc đề xuất phương án “đổi đất lấy hạ tầng” cho những dự
án của họ sẽ triển khai là không có gì nằm ngoài dự đoán của giới đầu tư. Đặc
biệt, với mối quan hệ giữa Việt Nam và Trung Quốc thì hình thức “ngoại giao
nhà đất” có thể diễn ra thuận lợi.
Như vậy trong tương lai
có thể hàng trăm hecta, thậm chí hàng ngàn hecta đất của các quốc gia trên
thế giới, trong đó có Việt Nam, trở thành vốn đối ứng trong các dự án mà
doanh nghiệp Trung Quốc thắng thầu. Trong tương lai sẽ có thể có những “làng
mạc” Trung Quốc ở nhiều quốc gia trên thế giới, chứ không chỉ là những khu
phố Trung Quốc, dạng “China town” nữa.
Trong khi người ta còn
đang mải nghiên cứu tái cơ cấu nền kinh tế Trung Quốc là gì, chỉ số tăng
trưởng của kinh tế Trung Quốc giảm thì có ý nghĩa như thế nào, thì tác hại
của nó đã hiển hiện, đã trở thành mối nguy cho người dân, cho đất nước ở
nhiều khu vực trên thế giới – trong đó có người dân, có doanh nghiệp Việt Nam.
Chỉ “một tấc đất” của cha
ông để lại nơi biên giới hay đảo xa bị mất là có thể xảy ra những xung đột
căng thẳng. Nhưng hàng ngày, hàng giờ có thể có hàng “triệu tấc đất” của tổ
tiên dần dần trở thành tài sản của người khác trong một cuộc chiến âm thầm –
chiến tranh kinh tế - thì nhiều người có thể dễ lãng quên.
“Cuộc chiến tranh không
tiếng súng” với Trung Quốc dù không gây ra thương vong, đổ máu, nhưng ảnh
hưởng của nó trên những công trường rộn tiếng Hoa có thể là nguyên nhân khiến
cho người dân mất đi cuộc sống yên bình, đất nước mất đi vẻ thanh bình nếu
mất cảnh giác với những suy nghĩ chủ quan.
(Theo
Giáo dục VN) Ngọc
Việt
|
Thứ Sáu, 4 tháng 3, 2016
Đăng ký:
Đăng Nhận xét (Atom)
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét