“Nền dân chủ phương Tây” và sự khủng hoảng niềm tin
(Tiếp
theo)
Cập nhật lúc 08:02
Về chống tham
nhũng: Điều này cho thấy quyền lực nhà nước không chỉ là quyền lực để bảo vệ
công dân, mà một phần bị lạm dụng để làm giàu cho riêng mình. Nếu nhà nước sử
dụng quyền lực để làm lợi cho cá nhân, thì nhà nước lạm dụng sự tín nhiệm của
công dân. Các chỉ số được Ngân hàng Thế giới cung cấp, cho biết phạm vi đánh
giá của người dân về quy mô của sự lạm dụng quyền lực. Nếu chỉ số càng cao
thì việc kiểm soát tham nhũng qua người dân càng tốt và lòng tin của người
dân vào hệ thống càng cao.
Về hiệu quả của hành chính công: Là một phần của hệ thống
chính trị công cộng nên hành chính công cũng phải được xem xét. Chỉ số này
cho biết nhận thức của công dân về hiệu quả và chất lượng hành chính công.
Điều này cũng độc lập với các áp lực chính trị, chất lượng xây dựng chính
sách và thực hiện cũng như độ tin cậy của các cam kết chính phủ đối với các
chính sách. Các chỉ số giá trị cao hơn thì cảm nhận về hiệu quả và chất lượng
của cơ quan hành chính càng cao và người dân tin tưởng càng nhiều. Các dữ
liệu lấy từ các hồ sơ dữ liệu của Ngân hàng Thế giới.
Từ quan điểm tiếp cận và nghiên cứu như vậy, công trình đã
đưa ra kết quả trong bảng bên, trong đó: (1) là vị trí theo bậc thang, (2) là
điểm số theo mức điểm 0-100.
Trong phần kết luận, hai tác giả viết: “Chủ đề lòng tin có
tầm quan trọng lớn không chỉ trong quan hệ giữa con người với con người. Cả
trong chính trị, kinh tế, các phạm vi xã hội, câu hỏi về lòng tin ngày càng
được chú ý từ vài năm nay. Với tiến trình toàn cầu hóa, nhu cầu tin tưởng
tổng quát vào lực lượng từ bên ngoài tăng nhanh, các nguy cơ lợi dụng lòng
tin cũng tăng theo, trở nên phức tạp hơn. Các nhà khoa học của nhiều lĩnh vực
khác nhau đã đưa lòng tin vào chủ đề nghiên cứu của mình. Ngoài việc giải
trình lý thuyết và nhận thức, nhiều nghiên cứu thực nghiệm đã phân tích mối
quan hệ tin cậy giữa các cá nhân, tác động của sự tin cậy trong quan hệ con
người với các yếu tố liên quan kinh tế cũng như các mối liên quan giữa niềm
tin của con người với các tập đoàn kinh tế lớn. Vì sự tin tưởng đóng một vai
trò quan trọng, cần phải nhận biết có bao nhiêu niềm tin đang tồn tại trong
một quốc gia. Ở khía cạnh này, phải xác định lòng tin được đo trong phạm vi
nào. Từ góc độ kinh tế và khoa học xã hội, các phạm vi như chính trị, kinh tế
và xã hội cho chúng ta các khả năng phân tích liên quan và thú vị. Ngoài ra,
chúng tạo nên trong tranh luận khoa học những khái niệm bổ trợ được sử dụng
nhiều và ở cấp độ vĩ mô, phần lớn được xem là những hệ thống hoàn toàn khác
nhau. Do đó, sự so sánh lòng tin theo bình diện quốc tế đối với hệ thống
chính trị, hệ thống kinh tế và hệ thống xã hội, chủ yếu dựa vào chỉ số lòng
tin đo được bằng khảo sát thị trường và thăm dò dư luận. Bên cạnh việc nghiên
cứu lòng tin vào các hệ thống ở những nước châu Âu khác nhau, thì công trình
này đem lại các kết quả sâu sắc của khoảng thời gian liên tục 14 năm liền”.
Một đánh giá của ông M. Huýt-thờ (M. Huether), Giám đốc
Viện Nghiên cứu Kinh tế Cologne trong những ngày qua được rất nhiều tờ báo và
tạp chí trích dẫn là, ở châu Âu: “có một vòng tròn luẩn quẩn của khủng hoảng
kinh tế và sự mất lòng tin vào chính trị” (trong tiếng Đức, ông này dùng từ
Teufelkreis - vòng tròn ma quỷ - HNT). Theo tác giả, những nước dẫn đầu bảng
là “những nước ở đó có sự kết hợp hài hòa giữa lòng tin và sự kiểm soát”, và
“để lấy lại lòng tin của người dân cần phải có một quãng thời gian tương đối
dài”. Kết quả điều tra cho thấy, nếu tổng sản phẩm quốc nội thấp thì lòng tin
của người dân vào nhà nước và chính trị cũng thấp theo, thí dụ các nước phía
nam châu Âu. Nhưng tác giả cũng nhấn mạnh, điều này không đúng với Cộng hòa
Pháp và Vương quốc Anh, tuy ở vị trí trước CHLB Đức nhưng ở Vương quốc Anh
“sự chán chường nhà nước ngày càng trầm trọng”. Cũng theo ông M. Huýt-thờ thì
“trong một quãng thời gian dài, ở một số nước thành viên của EU, sự thiếu
lòng tin được che đậy bằng đồng EURO”.
Trong bảng bậc thang, CHLB Đức đứng thứ bảy, thuộc vào
nhóm “top 10”. Điểm mạnh của Đức là lòng tin vào hệ thống kinh tế, nhưng lòng
tin vào hệ thống chính trị lại đứng sau Đan Mạch, Phần Lan, Thụy Điển, Thụy
Sĩ và Hà Lan. Điều này cũng dễ hiểu, bởi trong các nghiên cứu khác trước đó
cũng đã chỉ ra xu hướng chán chường chính trị. Thí dụ, trên cổng thông tin
Statista, một trong những trang mạng thống kê lớn nhất trên Internet, người
quan tâm có thể đọc dữ liệu về kết quả thăm dò dư luận do Viện Bertelsmann -
Stiftung (Bet-the-sơ-man) thực hiện vừa qua. Khi được hỏi, tại sao lại chán
chường chính trị, thì 61% số người được hỏi trả lời: không thể đồng cảm với
những gì đang xảy ra trong chính trị; 54%: trong chính trị hay lừa đảo; 46%:
quan tâm hơn tới các vấn đề khác; 45%: có cảm giác không thể tác động được
gì; 38%: thất vọng với chính trị và các chính trị gia. Theo con số công bố
trên báo chí vào ngày 16-7-2015, trong năm 2014, các đảng trong liên minh cầm
quyền ở CHLB Đức vẫn tiếp tục suy giảm số lượng đảng viên, cụ thể so với
2013, Đảng Dân chủ xã hội Đức (SPD) mất 2,9%, còn 459.902 đảng viên (năm 1977
đảng này có một triệu đảng viên, những năm 80 của thế kỷ trước còn 900.000
đảng viên); Đảng Liên minh dân chủ Kitô giáo Đức (CDU): mất 2,1%, còn 457.488
đảng viên (những năm 90 của thế kỷ trước, đảng này có tới 750.000 đảng viên);
Đảng Liên minh xã hội Kitô giáo Bayern (CSU) mất 1,2% còn 146.536 đảng viên
(năm 1999 đảng này có 186.198 đảng viên)…
Không ai phủ nhận thực tế, trong quá trình xây dựng và
phát triển đất nước, hoàn thiện xã hội và nâng cao đời sống mọi mặt của con
người,… Việt
(Theo Nhân dân) HỒ
NGỌC THẮNG
(Lược dịch và tổng thuật)
|
Thứ Hai, 14 tháng 9, 2015
Đăng ký:
Đăng Nhận xét (Atom)
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét