Học tập nước ngoài, nhưng cẩn thận mắc ‘bệnh hình thức’
Cập nhật lúc 08:58
Muốn thực hiện được giáo dục “tích
hợp” hay “phân hóa” thì cần phải có sự tính toán và chuẩn bị
kĩ hơn với các nghiên cứu thực sự, để tránh nguy cơ khi thực thi mắc vào
hình thức và hời hợt.
Quan điểm dạy học “tích hợp” và
“phân hóa” trong Dự thảo chương trình giáo dục phổ thông có lẽ là vấn đề khiến cho nhiều giáo
viên và sinh viên sư phạm lo lắng nhất.
Bài viết dưới đây phân tích một vài khía cạnh còn băn
khoăn liên quan đến “tích hợp” và “phân hóa” đối với các
môn thuộc lĩnh vực khoa học xã hội (KHXH).
Tích hợp là “tất yếu” nhưng…
“Tích hợp” là một xu thế phổ biến ở các nền giáo
dục tiên tiến. Đối với lĩnh vực KHXH, sự tồn tại của môn
Nghiên cứu xã hội (Social Studies) và vai trò của nó đủ nói lên
điều ấy.
Ở Nhật Bản, môn học này đã xuất hiện từ năm 1947
trong cuộc cải cách giáo dục thời hậu chiến cùng với một số môn học
có tính chất tổng hợp khác. Hiện trong chương trình phổ thông của Nhật
vẫn có các môn như, Nghiên cứu xã hội, Xã hội hiện đại, Đời
sống,… đóng vai trò như môn học “tích hợp”.
Trong Dự thảo lần này, định hướng tích hợp được thể hiện
rõ với sự ra đời của các môn học ở ba cấp như: Cuộc sống quanh ta (lớp 1,
2, 3 ), Tìm hiểu xã hội (lớp 4, 5), Khoa học xã
hội (THCS, THPT), Công dân với tổ quốc (THPT).
Sự tổ chức, phân chia các môn học đó có dáng dấp học tập
từ nước ngoài. Nó khá giống với cơ cấu môn học của Nhật Bản hiện
tại: Đời sống (lớp 1, 2), Nghiên cứu xã hội (lớp 3, 4,
5,6), Lịch sử, Địa lý (THCS); Lịch sử, Địa lý, Công dân
và Xã hội hiện đại (THPT).
Tuy nhiên khi nhìn vào phần diễn giải về “dạy học
tích hợp”, có thể thấy độ “vênh” nhất định khi so sánh với Nhật
Bản, đặc biệt là mối quan hệ giữa các môn học “phân hóa” và môn
“tích hợp” trong cùng nhóm.
Chẳng hạn, mối quan hệ giữa các môn Lịch
sử, Địa lý và môn KHXH. Dự thảo đưa ra giải thích về vai trò của môn
KHXH ở THCS như sau: “tích hợp chủ yếu các lĩnh vực kiến thức về
Lịch sử, Địa lý, đồng thời lồng ghép tích hợp kiến thức ở mức độ đơn giản về
kinh tế, văn hoá, khoa học, tôn giáo,....”. Cách diễn đạt này vừa mơ hồ,
vừa ẩn chứa nguy cơ hiểu sai rằng môn KHXH chỉ là sự lắp ghép cơ học các đơn
vị kiến thức của hai môn học riêng rẽ từng tồn tại trước
đó là Lịch sử và Địa lý.
Nghĩa là SGK của nó sẽ là sự cộng lại của 2 phần Sử
và Địa, giống như SGK môn Lịch sử-Địa lý hiện đang sử dụng ở tiểu
học. Có khác chăng chỉ là thêm một vài nội dung học tập ở phía sau về
“kinh tế, văn hóa, khoa học, tôn giáo”.
Thực chất “dạy học tích hợp” không phải là như
vậy. Ở đây, để so sánh, tôi thử dẫn ra “học tập tổng hợp” (ở Nhật người
ta không dùng thuật ngữ tích hợp). Ở nước này, hiện học tập tổng hợp ở lĩnh
vực KHXH được thực hiện chủ yếu thông qua môn “Nghiên cứu
xã hội” và “Thời gian học tập tổng hợp” (nó không phải là môn học mà chỉ là
thời gian được định ra với phần nội dung thuộc quyền tự chủ hoàn toàn của các
trường).
Ở đó, triết lý nền tảng là hướng tới
giáo dục người công dân dân chủ có “phẩm chất công dân” và “năng
lực sống” (năng lực tự mình suy nghĩ, tự học, tự phát hiện và giải quyết vấn
đề, năng lực ứng phó với sự biến đổi của môi trường, năng lực tư duy phê phán).
Vì vậy chủ đề học tập sẽ được xây dựng dựa trên mối quan tâm, hứng thú của
học sinh và nó thường là những vấn đề bức xúc của cuộc sống hiện tại, những
vấn đề mà xã hội đang đối mặt.
Những vấn đề này thường là “giao điểm”, “ngã tư
đường” của nhiều ngành khoa học (Lịch sử, Địa lý, Kinh tế học, Xã hội
học…). Bởi vậy các chủ đề học tập thường sẽ là: Môi trường và phát triển bền
vững, hòa bình, nhân quyền, phúc lợi và an sinh xã hội, sản xuất và tiêu
dùng, lý giải các vấn đề quốc tế…
Hình thái học tập ở đó sẽ là học tập giải quyết vấn đề.
Giáo viên sẽ hướng dẫn, tổ chức học sinh thiết lập chủ đề, tìm kiếm thông tin
thông qua phỏng vấn, điều tra xã hội học, tra cứu tư liệu tại bảo tàng,
thư viện, khảo sát điền dã…, từ đó tiến hành thảo luận và thể hiện kết quả nghiên
cứu dưới nhiều dạng khác nhau: áp phích (poster), báo, tập san, triển lãm,
buổi diễn thuyết, báo cáo… Phương pháp học tập sẽ là thảo luận, tranh luận
đối mặt (debate), điều tra thông tin, đóng vai (role-playing), mô phỏng thực
tế (mô phỏng họp quốc hội, mô phỏng tranh cử thủ tướng…).
Như vậy “dạy học tích hợp” (đúng ra nên gọi là
học tập tổng hợp) sẽ phải được xây dựng và tiến hành trên nền tảng lý luận
riêng, nếu không sẽ rơi vào sai lầm lắp ghép và dạy học kiểu liên hệ, minh
họa thuần túy.
Phân hóa là tốt nhưng…
Quan điểm “tích hợp” mạnh ở các lớp dưới
và “phân hóa” mạnh dần ở các lớp trên trong Dự thảo là một
quan điểm hiện đại, tiến bộ. Tuy nhiên trong cách thức phân hóa có nhiều
bất ổn. Chẳng hạn ở cấp THPT, dự thảo viết: “nếu chọn môn Khoa
học Xã hội thì không chọn các môn: Lịch sử, Địa lý. Các môn Khoa học Tự nhiên
và Khoa học Xã hội chỉ học ở lớp 10 và lớp 11”. Theo tôi đây là
một điểm bất hợp lý.
Mục đích của việc bố trí Lịch sử, Địa
lý cho lớp 12 có lẽ ngoài ý đồ “phân hóa” còn tính đến chuyện
khối thi đại học. Đã là tự chọn thì học sinh có quyền nói
“không” nhưng vấn đề đặt ra là nếu cả ba năm THPT mà học
sinh không học Lịch sử, Địa lý như một khoa học thì có ổn
không?
Ở Nhật Bản, mặc dù có “phân hóa” và “tự chọn” đối với Lịch
sử và Địa lý nhưng đấy là “lựa chọn có tính bắt buộc”, trong đó hai môn
này được phân thành mức độ và cơ cấu nội dung khác nhau cho học sinh lựa
chọn.
Môn học KHXH có vai trò riêng đối với việc hình thành
“phẩm chất công dân” vì vậy cần phải trở thành môn bắt buộc. Tuy nhiên, điều
quan trọng hơn là nó phải được thiết kế dựa trên nền tảng lý luận
riêng, hướng trọng tâm vào triết lý giáo dục tạo nên những con người sẽ
cải tạo hiện thực để xây dựng xã hội ngày một tốt đẹp hơn.
Các chủ đề học tập ở đó phải là các chủ đề thiết
thực, xuất phát từ các vấn đề bức xúc của xã hội hiện tại như: Tham
nhũng, ô nhiễm môi trường, tai nạn giao thông, dịch vụ y tế và an sinh xã
hội, chất lượng cuộc sống và tôn trọng sinh mạng con người… Từ đây, thầy
và trò sẽ tiến hành sử dụng tư duy lịch sử và tư duy địa lý để tìm kiếm
thông tin giải thích, lý giải và tiến tới giải quyết vấn đề đó ngày
một tốt hơn.
Tái đào tạo giáo viên
Một khi thực hiện dạy học “tích
hợp” và “phân hóa” thì vấn đề lớn đặt ra là tái đào tạo giáo
viên.
Gần như 100% các giáo viên ở phổ thông chưa từng được
đào tạo cơ bản về “dạy học tích hợp”. Việt
Như vậy khi tái đào tạo giáo viên, đội ngũ chuyên gia sẽ lấy
ở đâu? Có khả tín không? Các chuyên gia đó sẽ tập huấn bồi dưỡng trực
tiếp các giáo viên hay tiến hành “đa cấp”, cấp bộ tập huấn cấp sở, sở tập
huấn tổ trưởng chuyên môn ở các trường, sau đó tổ trưởng chuyên
môn truyền lại cho giáo viên? Nếu làm theo cách này thì thật nguy
hiểm vì dễ xảy ra tình trạng chữ “tác” thành “chữ tộ”.
Một khó khăn nữa là một cơ chế khá “cứng” và “hẹp” ở VN:
muốn thành giáo viên phải tốt nghiệp các trường, khoa sư phạm
hoặc phải học qua và được cấp chứng chỉ nghiệp vụ sư phạm. Con
đường hẹp này ngăn cách nhiều người có trình độ khoa học chuyên môn
cao, giàu kinh nghiệm thực tiễn trở thành giáo viên. Việc đào tạo các
ngành biệt lập trong trường sư phạm cũng khiến việc dạy tích hợp
gặp khó khăn.
Ở Nhật Bản, những trở ngại này không khó giải quyết.
Thứ nhất, con đường trở thành giáo viên rộng mở cho tất cả những ai tốt
nghiệp đại học, lấy đủ số môn, số tín chỉ quy định và thi được giấy phép
hành nghề; Chế độ giấy phép hành nghề với hệ thống các môn học bắt buộc và tự
chọn phong phú trong trường đại học giúp cho ngay trong quá trình học, sinh
viên đã có có lựa chọn sau này trở thành giáo viên dạy môn “phân hóa”
hay “tích hợp”.
|
Chủ Nhật, 30 tháng 8, 2015
Đăng ký:
Đăng Nhận xét (Atom)
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét