Chi phí lao động: Kinh
nghiệm quốc tế và đề xuất cho Việt Nam
Cập nhật lúc 13:14
GS-TS NGUYỄN THIỆN NHÂN - CHỦ TỊCH UBTƯ MTTQ VIỆT NAM (VIẾT RIÊNG
CHO LAO ĐỘNG)
Chủ tịch Uỷ
ban T.Ư MTTQVN Nguyễn Thiện Nhân thăm người lao động Cty TNHH Hải Nguyên
(Bình Định). Ảnh: TTXVN
LTS: GS-TS Nguyễn Thiện Nhân - Ủy viên Bộ Chính trị, Chủ tịch Uỷ ban
T.Ư MTTQ Việt Nam - đã có bài viết gửi riêng cho Báo Lao Động với tựa đề “CHI
PHÍ LAO ĐỘNG: KINH NGHIỆM QUỐC TẾ VÀ ĐỀ XUẤT CHO VIỆT NAM”, trong đó có đề
xuất lộ trình tăng lương tối thiểu giai đoạn 2016-2025.
Việc tăng lương tối thiểu vùng năm 2016
đang là chủ đề gây sự chú ý đặc biệt của người lao động, song qua 2 lần họp,
Hội đồng Tiền lương Quốc gia vẫn chưa có kết quả, do có sự tranh luận quyết
liệt và không thống nhất được về mức tăng giữa bên đại diện cho người lao
động và phía đại diện cho giới chủ. Trong bối cảnh như vậy, bài viết của
GS-TS Nguyễn Thiện Nhân viết riêng cho Lao Động mang tính khách quan, khoa
học và là một phương án tham khảo tốt cho các nhà hoạch định chính sách. Báo
Lao Động xin chân thành cảm ơn đồng chí Nguyễn Thiện Nhân và trân trọng giới
thiệu bài viết của đồng chí tới bạn đọc:
Ở nước ta, hàng năm Chính phủ quy định
mức lương tối thiểu vùng để làm căn cứ cho các chủ DN quyết định mức trả
lương thực tế ở DN của mình. Đây là việc làm cần thiết để vừa đảm bảo lợi ích
của người lao động, vừa đảm bảo lợi ích của chủ DN. Tuy nhiên, việc thảo luận
và thương lượng giữa Tổng LĐLĐVN - thay mặt người lao động, Phòng Thương mại
và Công nghiệp Việt Nam (VCCI) - đại diện cho giới chủ DN và Bộ LĐTBXH - đại
diện cho Chính phủ thường rất khó khăn vì chưa rõ cơ sở khoa học của việc đàm
phán, thương lượng là gì. Xu hướng là NLĐ thì muốn lương cao, giới chủ DN thì
muốn lương thấp, Chính phủ thì muốn lợi ích của NLĐ và giới chủ đều được đáp
ứng, đồng thời thu hút đầu tư xã hội và đầu tư nước ngoài nhiều hơn. Để góp
phần xác định cơ sở khoa học cho việc thương lượng này, chúng tôi nghiên cứu
mối quan hệ giữa chi phí lao động 1 giờ bình quân trong ngành công nghiệp chế
tạo (sau đây gọi là “Chi phí lao động 1 giờ”) và GDP/người (sau đây gọi là
“GDP đầu người”) của 26 nền kinh tế, dựa trên các số liệu thống kê được công
bố công khai của Quỹ Tiền tệ Quốc tế và Văn phòng Thống kê Lao động của Mỹ.
I. Chi phí lao
động 1 giờ/GDP đầu người trong ngành công nghiệp chế tạo của một số nền kinh
tế
Việc so sánh các số liệu Chi phí lao
động 1 giờ và GDP đầu người của 26 nền kinh tế trong 17 năm qua (1996-2012)
đã đem lại một kết quả đáng ngạc nhiên (Bảng 1): Mặc dù GDP đầu người của các
nước rất khác nhau, từ 2.612USD/người (Philippines) đến 101.169USD/người (Na
Uy); Chi phí lao động 1 giờ cũng rất khác nhau, từ 2,1USD/giờ (Philippines)
đến 63,4USD/giờ (Na Uy), song tỉ lệ Chi phí lao động 1 giờ/GDP đầu người của
tất cả các nền kinh tế này đều nằm trong một vùng rất hẹp: 0,04-0,08% (Bảng
1). Tức là Chi phí lao động 1 giờ của tất cả 26 nền kinh tế đều tuân theo
công thức (1) sau:
Chi phí lao động 1 giờ = (0,04 ÷ 0,08)%
x GDP đầu người = Hệ số chi phí lao động 1 giờ x GDP đầu người (1)
Mỗi nước có một Hệ số chi phí lao động
1 giờ khác nhau, song với từng nước thì hệ số này là không thay đổi hoặc biến
đổi rất ít trong suốt 17 năm qua. Ví dụ, Hệ số chi phí lao động 1 giờ của Mỹ
là 0,07% được duy trì trong suốt 17 năm qua; của Hàn Quốc là 0,07% trong năm
1996, còn lại là 0,08% trong suốt 16 năm từ 1997-2012; của Israel là 0,06% từ
1996-2002, là 0,07% từ 2003-2005 và trở lại tỉ lệ 0,06% từ 2006-2012. Công
thức Chi phí lao động 1 giờ cho thấy xu hướng có tính quy luật ở tất cả 26
nền kinh tế trên là: Khi GDP đầu người tăng thì Chi phí lao động 1 giờ tăng,
và theo đó là tiền lương 1 giờ tăng. Tức là, khi tổng sản phẩm nội địa đầu
người tăng thì tiền lương 1 giờ hay thu nhập 1 giờ của người lao động cũng
tăng. Xem xét kỹ hơn hệ số chi phí lao động 1 giờ của 26 nền kinh tế trong 17
năm qua cho thấy xu hướng sau (Bảng 1):
- 7 nền kinh tế có Hệ số chi phí lao
động 1 giờ cao nhất năm 2012 (0,08%) đều là các nước có thu nhập cao (theo
phân nhóm của Ngân hàng Thế giới là GDP đầu người năm 2012 từ 12.735USD trở
lên (năm 2011 là 12.475USD), trừ Philippines có GDP đầu người thuộc Nhóm thu
nhập trung bình thấp (2.612 USD/người);
- 6 nước có Hệ số chi phí lao động 1
giờ là 0,07% đều là các nước có thu nhập cao, GDP đầu người từ 12.769USD
(Hungary) đến 83.708USD (Thụy Sỹ);
- 8 nước có Hệ số chi phí lao động 1
giờ là 0,06% đều là các nước có thu nhập cao, GDP đầu người từ 17.109USD
(Estonia) đến 101.169USD (Na Uy);
Như vậy, trong
số 21 nước có Hệ số chi phí lao động 1 giờ từ 0,06% đến 0,08% thì 20 nước là
nước có thu nhập cao và Philippines là nước có thu nhập trung bình
thấp (2.612USD/người).
- Trong 5 nền kinh tế có Hệ số chi phí
lao động 1 giờ dưới 0,06% (
Như vậy có thể
khái quát như sau:
- Tùy theo điều kiện kinh tế, xã hội
của các nước mà Hệ số chi phí lao động 1 giờ là khác nhau, song đều nằm trong
khoảng 0,04% đến 0,08%; GDP đầu người tăng thì chi phí lao động 1 giờ sẽ
tăng;
- Nhìn chung, tuyệt đại đa số các nước
có thu nhập cao thì có Hệ số chi phí lao động 1 giờ cao (0,08%) hoặc trung
bình (0,06%);
- Các nền kinh tế có thu nhập trung
bình có Hệ số chi phí lao động 1 giờ thấp (0,04%). Singapore có thu nhập rất
cao (GDP đầu người là 52.818 USD, Bảng 1), song có lẽ do là thành viên ASEAN
với hầu hết các nước có thu nhập ở mức trung bình (dưới 12.475 USD năm 2011),
nên để tăng tính cạnh tranh của nền kinh tế Singapore, nước này đã duy trì Hệ
số chi phí lao động 1 giờ tương đối thấp: 0,05%. Đài Loan có thu nhập cao
(GDP đầu người là 21.270USD, Bảng 1), song có lẽ do nằm ở Châu Á, gần các
nước Đông Nam Á, nên để đảm bảo sức cạnh tranh của nền kinh tế, Đài Loan đã
duy trì Hệ số chi phí lao động 1 giờ thấp: 0,04%;
-
- Việt Nam với GDP đầu người năm 2012
là 1.753USD, còn thấp hơn cả
II. Chi phí lao
động ở Việt Nam
Với kinh nghiệm quốc tế như trên thì
Chi phí lao động 1 giờ hợp lý ở Việt
Chi phí lao
động 1 giờ = 0,06% x GDP đầu người (2)
Như vậy, với GDP đầu người năm 2012 là
1.753USD thì Chi phí lao động 1 giờ là 1,05USD, còn với GDP đầu người năm
2015 theo ước tính của Quỹ Tiền tệ Quốc tế là 2.233USD thì Chi phí lao động 1
giờ sẽ là 1,34USD. Nếu năm 2014, dự báo tỉ giá hối đoái bình quân năm 2015 là
22.200 VND/USD, thì Chi phí lao động 1 giờ năm 2015 sẽ là 29.748 đồng/giờ.
Theo quy định của luật hiện hành thì ngoài lương, chủ doanh nghiệp còn phải
chi 18% lương cho Bảo hiểm xã hội, 3% lương cho Bảo hiểm y tế, 1% lương cho
Bảo hiểm thất nghiệp và 2% lương cho Công đoàn phí, tổng cộng là 24% lương
của người lao động. Do đó, Chi phí lao động 1 giờ mà chủ doanh nghiệp phải
trả sẽ là Lương 1 giờ x 1,24. Như vậy, ta xác định được lương bình quân tháng
(ngày làm việc 8 tiếng) ở Việt
Lương bình quân tháng = Chi phí lao
động 1 giờ : 1,24 x 8 giờ x Số ngày lao động trong tháng (3)
Nếu bình quân 1 tháng người lao động
làm việc 24 ngày thì Lương bình quân tháng năm 2015 sẽ là:
Lương bình quân tháng năm 2015 = 29.748
đồng/1,24 x 8 x 24 = 4,606 triệu đồng/tháng
Đối chiếu với tiền lương thực tế (không
tính làm thêm giờ, thưởng, phụ cấp và phúc lợi khác) của người lao động trong
lĩnh vực công nghiệp chế biến, chế tạo bình quân là 3.757.000 đồng/tháng (theo
Bản tin cập nhật thị trường lao động Việt Nam quý I/2015 của Bộ LĐTBXH) thì
mức lương thực tế các chủ doanh nghiệp trong ngành chế tạo trả cho người lao
động trong quý I năm 2015 mới chỉ bằng 80% mức lương đáng lẽ ra phải trả theo
cách tính toán trên. Theo nhận định của Bộ LĐTBXH, tiền lương thực tế của
công nhân bình quân chỉ đáp ứng 75% nhu cầu của một người đi làm và một người
phụ thuộc. Như vậy, việc tính lương trung bình của ngành chế tạo ở Việt Nam
theo công thức (2), với Hệ số chi phí lao động 1 giờ là 0,06%, là 4,606 triệu
đồng/tháng, vừa phù hợp với thông lệ quốc tế, vừa phù hợp với nhận định của
Bộ LĐTBXH về mức lương đảm bảo cuộc sống của người lao động.
Theo Nghị định 103/2014/NĐ-CP ngày
11.11.2014 của Chính phủ thì năm 2015 lương tối thiểu vùng 1 là 3,1 triệu
đồng/tháng, vùng 2 là 2,75 triệu đồng/tháng, vùng 3 là 2,4 triệu đồng/tháng
và vùng 4 là 2,15 triệu đồng/tháng. Như vậy, đối chiếu với tính toán trên thì
mức lương tối thiểu theo quy định cho vùng 3 và 4 là rất thấp.
Với mức Chi phí lao động 1 giờ của Việt
Nam năm 2015 theo tính toán ở trên là 29.748 đồng/giờ (tương đương 1,34
USD/giờ), trong khi của Thái Lan là 2,2USD, của Malaysia là 3,7USD (năm
2013), của Trung Quốc là 2,6USD và của Philippines là 2,1USD (năm 2012), thì
Chi phí lao động 1 giờ của Việt Nam có tính cạnh tranh cao, chỉ bằng 63,8%
của Philippines, 60,9% của Thái Lan, 51,5% của Trung Quốc và bằng 36,2% của
Malaysia.
Nếu dự báo GDP năm 2016 của Việt Nam là
217 tỉ USD (tăng 6,5% so với GDP năm 2015), thì GDP đầu người năm 2016 sẽ là
217 tỉ USD/91,5 triệu người = 2.371USD. Nếu dự báo tỉ giá hối đoái bình quân
năm 2016 là 22.650 VND/USD, thì:
Chi phí lao động 1 giờ năm 2016 = 0,06%
x 2.371USD = 1,42USD = 1,42USD x 22.650 VND/USD = 32.222 đồng
Như vậy, nếu
bình quân 1 tháng người lao động làm việc 24 ngày thì lương bình quân tháng
của ngành công nghiệp chế biến, chế tạo năm 2016 sẽ là:
Lương bình quân tháng của ngành công
nghiệp chế biến, chế tạo năm 2016 = 32.222 đồng/1,24 x 8 x 24 = 5 triệu
đồng/tháng
Nếu dự kiến mức
lương tối thiểu bằng 80% mức lương bình quân theo tính toán trên thì mức
lương tối thiểu của ngành công nghiệp chế biến, chế tạo năm 2016 sẽ là 4
triệu đồng/tháng. Mức lương của các lĩnh vực khác có thể được quy định căn cứ
theo tương quan giữa lương thực tế các chủ doanh nghiệp trong các lĩnh vực
khác trả cho người lao động và lương chủ doanh nghiệp trong ngành công nghiệp
chế biến, chế tạo trả cho người lao động trong quý I năm 2015 (Bảng 2). Ví
dụ, nếu lương bình quân tháng của ngành công nghiệp chế biến, chế tạo năm 2016
là 5 triệu đồng/tháng thì lương bình quân tháng của ngành khai khoáng (có
lương tháng bằng 1,4 lần ngành công nghiệp chế biến, chế tạo) là 7 triệu
đồng/tháng, của ngành sản xuất và phân phối điện, khí đốt, nước nóng, hơi
nước và điều hòa không khí (có lương tháng bằng 1,57 lần ngành công nghiệp
chế biến, chế tạo) là 7,9 triệu đồng/tháng, của ngành vận tải, kho bãi (có
lương tháng bằng 1,3 lần ngành công nghiệp chế biến, chế tạo) là 6,5 triệu
đồng/tháng, của ngành tài chính, ngân hàng và bảo hiểm (có lương tháng bằng
1,49 lần ngành công nghiệp chế biến, chế tạo) là 7,4 triệu đồng/tháng, của
ngành giáo dục và đào tạo (có lương tháng bằng 1,25 lần ngành công nghiệp chế
biến, chế tạo) là 6,2 triệu đồng/tháng.
III. Cần một lộ
trình tăng tiền lương và chi phí lao động ở Việt Nam phù hợp với
quy luật phát triển kinh tế và thực tế ở Việt Nam
Sự phát triển kinh tế Việt
Vì vậy, cần xây dựng lộ trình tăng
lương để vừa đảm bảo khả năng thích nghi của các doanh nghiệp, vừa đảm bảo
đời sống cho người lao động, tạo áp lực cần thiết để các doanh nghiệp đổi mới
tư duy, đổi mới công nghệ, phát triển đúng theo quy luật là thu nhập, năng
suất lao động ngày một tăng chủ yếu là do công nghệ mới, hiện đại và trình độ
lao động ngày càng tăng quyết định;
Theo xu hướng quy luật chung về quan hệ
giữa chi phí lao động và GDP đầu người đã trình bày ở trên cũng như điều kiện
của Việt Nam, với Hệ số chi phí lao động 1 giờ là 0,06%, trên cơ sở phân tích
tương quan giữa mức lương tối thiểu của vùng 1 (mức cao nhất) và lương bình
quân tháng đảm bảo cuộc sống tính theo công thức (3) trong giai đoạn
2010-2015 và dự báo cho giai đoạn 2016-2020, cân nhắc khả năng chịu đựng chi
phí lao động tăng lên của doanh nghiệp, chúng tôi đề xuất 2 phương án về lộ
trình tăng lương như sau:
Phương án 1:
Lương tối thiểu vùng 1 bằng lương bình quân tháng đảm bảo cuộc sống theo công
thức (3) sau 7 năm từ 2016 đến 2022:
Nhận xét Bảng
3:
- Xem xét tỉ lệ lương tối thiểu vùng
1/lương bình quân tháng đảm bảo cuộc sống tính theo công thức (3) trong giai
đoạn 2010-2015 chúng ta thấy năm 2010 lương tối thiểu vùng 1 chỉ bằng 41,7%
lương bình quân tháng đảm bảo cuộc sống và đến năm 2015 tỉ lệ này là 67,3%.
Như vậy, trong 5 năm qua, mặc dù lương tối thiểu có tăng nhưng vẫn không đảm
bảo được cuộc sống của người lao động;
- Trong giai đoạn 2010-2015, mặc dù
lương tối thiểu có tăng nhưng 2 đường lương tối thiểu vùng 1 và lương bình
quân tháng đảm bảo cuộc sống có xu hướng song song nhau, tức là lương tối
thiểu không đảm bảo cuộc sống. Do đó, chúng tôi đề nghị xây dựng lộ trình rút
ngắn khoảng cách lương tối thiểu vùng 1 và lương bình quân tháng đảm bảo cuộc
sống sau 7 năm từ 2016 đến 2022 dựa trên các giả định và dự báo sau:
+ Lương tối thiểu vùng 1 tăng 14%/năm
từ 2016-2021 và tăng 13,86% năm 2022
+ GDP/người tăng 5,5%/năm trong giai
đoạn 2016-2022
+ Tỉ giá tăng
bình quân 2%/năm trong giai đoạn 2016-2022
- Với các giả định như trên, lương tối
thiểu vùng 1 trong các năm từ 2016 đến 2022 sẽ như sau: 2016 - 3,53 triệu
đồng/tháng, 2017 - 4,03 triệu đồng/tháng, 2018 - 4,59 triệu đồng/tháng, 2019
- 5,24 triệu đồng/tháng, 2020 - 5,97 triệu đồng/tháng, 2021 - 6,8 triệu đồng/tháng
và đến năm 2022 sẽ đạt 7,75 triệu đồng/tháng bằng với mức lương bình quân
tháng tính theo công thức (3), đảm bảo đời sống của người lao động và khả
năng cạnh tranh của nền kinh tế: đến năm 2022, Chi phí lao động 1 giờ của
nước ta mới chỉ ở mức 1,96 USD/giờ, vẫn thấp hơn mức lương 2,1USD của
Philippines năm 2012 (10 năm trước).
Trong Phương án này, mức tăng
lương tối thiểu bình quân 14%/năm từ 2016 đến 2021 có thể là áp lực lớn đối
với doanh nghiệp.
Xem xét đến khả năng chịu đựng chi phí
lao động của doanh nghiệp trong bối cảnh kinh tế thế giới trong thời gian tới
còn nhiều biến động, tình hình kinh doanh của các doanh nghiệp trong nước còn
khó khăn, Phương án 2 được xây dựng theo lộ trình 10 năm để rút ngắn chênh
lệch giữa Lương tối thiểu Vùng 1 với mức lương có thể đảm bảo được cuộc sống
của người lao động. Với giả định mức tăng lương tối thiểu bình quân là
12%/năm từ năm 2016 đến năm 2024 và 12,3% năm 2025, thì sau 10 năm, Lương tối
thiểu Vùng 1 sẽ bằng với Lương bình quân tháng đảm bảo cuộc sống (Bảng 4)
Với các giả định như vậy, Lương tối
thiểu Vùng 1 trong các năm từ 2016 đến 2025 sẽ như sau: 2016 - 3,47 triệu
đồng/tháng, 2017 - 3,89 triệu đồng/tháng, 2018 - 4,36 triệu đồng/tháng, 2019
- 4,88 triệu đồng/tháng, 2020 - 5,46 triệu đồng/tháng, 2021 - 6,12 triệu
đồng/tháng, 2022 - 6,85 triệu đồng/tháng, 2023 - 7,68 triệu đồng/tháng, 2024
- 8,6 triệu đồng/tháng và đến năm 2025 đạt 9,65 triệu đồng/tháng bằng với mức
lương bình quân tháng tính theo công thức (3), đảm bảo đời sống của người lao
động và khả năng cạnh tranh của nền kinh tế: đến năm 2025, Chi phí lao động 1
giờ của nước ta mới ở mức 2,3 USD/giờ, vẫn thấp hơn mức lương 2,6 USD của
Trung Quốc năm 2012 (13 năm trước).
Trên cơ sở bàn bạc với đại diện các
doanh nghiệp, Tổng Liên đoàn Lao động Việt Nam và Bộ LĐTBXH, các bên liên
quan có thể thống nhất lộ trình tăng lương tối thiểu để đảm bảo lợi ích của
doanh nghiệp, của người lao động và lợi ích của đất nước trong giai đoạn 2016
- 2025 và những năm tiếp theo.
Phương án 2: Lương tối thiểu Vùng 1 bằng
Lương bình quân tháng tính theo công thức (3) sau 10 năm từ 2016 đến 2025:
Xem bảng 4.
(Theo Lao động)
|
Thứ Sáu, 28 tháng 8, 2015
Đăng ký:
Đăng Nhận xét (Atom)
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét