Tư tưởng nhân văn quân sự Hồ Chí Minh - Hệ giá trị nhân văn tự
phát sáng
Cập nhật lúc 14:01
QĐND - LTS: Trong dịp toàn Đảng, toàn dân,
toàn quân đẩy mạnh các hoạt động chào mừng kỷ niệm 125 năm Ngày sinh Chủ tịch
Hồ Chí Minh (19-5-1890 /19-5-2015), khá nhiều trang mạng nước ngoài và blog
cá nhân dẫn đăng một số bài viết với nội dung cố tình bôi nhọ, hạ thấp giá
trị tư tưởng quân sự Hồ Chí Minh.
Thực chất của những luận điệu
đó là nhằm xuyên tạc tư tưởng và những cống hiến to lớn của lãnh tụ Hồ Chí
Minh với sự nghiệp cách mạng và xây dựng Quân đội nhân dân “cách mạng, chính
quy, tinh nhuệ, từng bước hiện đại”. Báo Quân đội nhân dân giới thiệu vệt bài
với nhiều luận cứ khoa học, tư liệu lịch sử, nhằm vạch trần những thủ đoạn
xuyên tạc, bội nhọ nêu trên.
“Bạo
lực cách mạng” vì độc lập, tự do thiêng liêng của Tổ quốc
“Nếu không bị uy hiếp, chúng ta không cần
có tự vệ”
Đầu tháng 5-2015, Đài BBC tiếng Việt và Đài RFA
đều dẫn đăng một bài viết bịa đặt trắng trợn nhiều chi tiết lịch sử, viện dẫn
những ý kiến của nhiều thành phần bất hảo, phản động, rồi hồ đồ “kết luận”:
Chính tư tưởng về “bạo lực cách mạng”, nhất là quan điểm “bạo lực cách mạng
triệt để” và “niềm say sưa bạo lực” của Hồ Chí Minh đã tạo nên đội quân cộng sản
hiếu chiến, kích động chiến tranh và tạo ra sự hy sinh không cần thiết trong
hai cuộc kháng chiến chống Pháp và chống Mỹ xâm lược…
Cần khẳng định rằng, đó là những luận điệu bịa
đặt trắng trợn, không chỉ ảnh hưởng đến giá trị tư tưởng, đạo đức Hồ Chí Minh
mà còn xúc phạm đến danh dự, tình cảm của con người và dân tộc Việt Nam. Lịch
sử nhân loại ghi nhận Hồ Chí Minh là nhà văn hóa lớn, sứ giả của hòa bình và
tình hữu nghị, lãnh tụ của cách mạng Việt Nam, người cha già muôn vàn kính
yêu của các dân tộc Việt Nam. Nhân loại cũng ghi nhận Hồ Chí Minh là nhà quân
sự thiên tài với những tư tưởng cách mạng, tư tưởng quân sự mang tầm thời
đại. Chính Người đã kế tục, phát triển những nội hàm về “bạo lực cách mạng”
sát với thực tiễn cách mạng Việt Nam, biến nó trở thành kim chỉ nam cho hoạt
động đấu tranh giải phóng dân tộc, giúp quân và dân ta đi hết thắng lợi này,
đến thắng lợi khác, đánh đuổi giặc ngoại xâm, mang lại hòa bình cho dân tộc
và thúc đẩy hòa bình thế giới. Đó là những tư tưởng quân sự mang tính nhân
văn, nhân đạo sâu sắc.
Do yêu cầu cách mạng, đặc biệt là do phong cách
giản dị của Hồ Chủ tịch, nên Người không đề tên một bài nói, bài viết nào của
mình bàn về chủ nghĩa nhân văn nói chung, hay tư tưởng nhân văn quân sự nói
riêng. Nhưng chủ nghĩa nhân văn Hồ Chí Minh đã toát ra từ toàn bộ cuộc đời
hoạt động cách mạng, tư tưởng và sự nghiệp mà Người đã tạo dựng. Thực tiễn
cho thấy, mọi nhận thức và hoạt động lãnh đạo, chỉ đạo lĩnh vực quân sự của Hồ
Chí Minh đều toát lên những giá trị nhân văn cao cả, không chỉ chúng ta mà
những người từng là đối tượng tác chiến ở bên kia chiến tuyến cũng phải thừa
nhận. Đó là cơ sở vững chắc phủ nhận luận điệu cho rằng, “Hồ Chí Minh là
người đam mê, say sưa bạo lực, đã gây nên sự hy sinh không cần thiết trong
hai cuộc kháng chiến chống Pháp và chống Mỹ”...
Đối với Hồ Chí Minh, việc phải tiến hành vũ
trang là để tự vệ, bảo vệ chính dân tộc, nhân dân mình trước sự tấn công của
các đội quân xâm lược mà lại là các đội quân có quân số đông, được trang bị
vũ khí đầy đủ, hiện đại hơn, được huấn luyện chu đáo, chuyên nghiệp. Cuộc
chiến tranh mà chúng ta buộc phải tiến hành là “chiến tranh chính nghĩa”,
“chiến tranh tự vệ”; chiến tranh là giải pháp cuối cùng, còn một phút có thể
tranh thủ, hy vọng đẩy lùi chiến tranh vẫn cứ tận dụng. Đây là điều mà Hồ Chí
Minh đã nhiều lần khẳng định trước toàn thế giới và được nhân loại có lương
tri ủng hộ, giúp đỡ rất to lớn, có hiệu quả. Như vậy, việc dụng binh là việc
nhân nghĩa, trừ ác diệt tà để cứu nước, cứu dân theo tư tưởng Chủ tịch Hồ Chí
Minh, hoàn toàn trái ngược với tư tưởng sùng bái, đam mê bạo lực.
Như chúng ta đã biết, sau Cách mạng Tháng Tám
chưa đầy một tháng, với âm mưu cướp nước ta một lần nữa, ngày 23-9-1945, thực
dân Pháp tiếp tục nổ súng, gây hấn ở Nam Bộ, buộc nhân dân ta phải bước vào
cuộc chiến tranh tự vệ mới. Trong bài nói chuyện tại Trường Cán bộ tự vệ Hồ
Chí Minh (7-1-1946), Người giải thích: “Nếu không bị uy hiếp, chúng ta không
cần có tự vệ. Tự vệ là vệ lấy mình, lấy gia đình mình, rồi đến thành phố mình,
nước mình. Ta phải ngăn ngừa mọi sự uy hiếp”. Như vậy, vũ trang tự vệ theo tư
tưởng của Người hoàn toàn đối lập với vũ trang xâm lược của các lực lượng
hiếu chiến với mưu đồ nô dịch, thống trị dân tộc khác. Vũ trang tự vệ là hoạt
động quân sự chính nghĩa của một dân tộc yêu chuộng hòa bình, không bao giờ
muốn chiến tranh. Do vậy, nó được sử dụng để giành và bảo vệ chính quyền cách
mạng, bảo vệ tính mạng, tài sản của nhân dân trước sự xâm lược của ngoại
bang, nên nó thể hiện rõ tính chất nhân văn, nhân đạo. Bởi vậy, khi thực dân
Pháp lộ rõ mưu đồ cướp nước ta một lần nữa, Hồ Chí Minh đã vạch rõ: “Là nạn
nhân của một cuộc xâm lược có chủ định từ trước, chúng tôi buộc phải tự vệ
chống lại một đối phương đang thực hiện phương pháp của một cuộc chiến tranh
tổng lực, như những cuộc bắn phá dã man làng mạc và dân thường” (1).
Cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp của nhân
dân Việt Nam là cuộc chiến tranh tự vệ bắt buộc để bảo vệ chính quyền non
trẻ, bảo vệ quyền tự quyết dân tộc, bảo vệ danh dự và nhân phẩm của một dân
tộc. Tuy nhiên, cuộc chiến tranh đó chỉ để đánh bại ý chí xâm lược của một số
kẻ hiếu chiến. Theo Hồ Chí Minh, “Nhân dân Việt Nam đã bị chính sách vũ lực, chính
sách xâm lăng của một vài người đại diện Pháp ở Đông Dương xô đẩy vào một
cuộc chiến tranh tự vệ thảm khốc” (2) và “Chính sách vũ lực mà các nhà đại
diện Pháp ở Đông Dương vẫn áp dụng từ trước tới nay, đã buộc dân tộc Việt Nam
phải võ trang tự vệ” (3). Người viết: “… Chúng tôi không muốn chiến tranh,
nhưng chúng tôi quyết tự vệ đến giọt máu cuối cùng. Chúng tôi quyết không
chịu mất nước làm nô lệ thực dân lần nữa. Mong Chính phủ, Nghị viện và nhân
dân Pháp hiểu cho. Mong các nước dân chủ trên thế giới hiểu cho” (4). Với
tinh thần tự vệ và ý chí tự lực, tự cường cao cả, dưới sự lãnh đạo của Đảng
và Chủ tịch Hồ Chí Minh, nhân dân ta đã làm nên chiến thắng ngày 7-5-1954
lừng lẫy Điện Biên, chấn động địa cầu.
Cuộc chiến tranh tự vệ chống đế quốc Mỹ mà nhân
dân Việt Nam tiến hành, chẳng những có giá trị nhân văn, nhân đạo đối với dân
tộc Việt Nam, mà còn đối với khu vực và thế giới. Người chỉ rõ: “Nhân dân
Việt Nam chúng tôi phải kiên quyết đấu tranh chống đế quốc Mỹ xâm lược để tự
vệ, để bảo vệ những quyền dân tộc thiêng liêng nhất của mình, đồng thời góp
phần giữ gìn hòa bình ở châu Á và thế giới” (5). Với tinh thần “Không có gì quý
hơn độc lập, tự do”, cuộc chiến tranh tự vệ của nhân dân ta đã giành thắng
lợi hoàn toàn, đúng như dự báo của Hồ Chí Minh là: “Đế quốc Mỹ đang tiến hành
một cuộc chiến tranh xâm lược tàn bạo nhất trong lịch sử chống nhân dân Việt
Phương thức đấu tranh cuối cùng
Suốt quá trình lãnh đạo, chỉ đạo cách mạng, Chủ
tịch Hồ Chí Minh luôn hướng tới một nền hòa bình cho dân tộc Việt Nam và xây
dựng tình hữu nghị với nhân dân Pháp, Mỹ. Bằng rất nhiều sách lược khôn khéo,
kể cả nhân nhượng cần thiết, Hồ Chí Minh muốn tránh cuộc chiến tranh Pháp -
Việt lần thứ hai (1945-1954) và cuộc chiến tranh Việt - Mỹ (1954-1975), nhưng
đều bị đối phương cự tuyệt. Nhân dân Việt Nam buộc phải kháng chiến chống đế quốc
Pháp và đế quốc Mỹ. Tuy nhiên, trong quá trình lãnh đạo, chỉ đạo kháng chiến,
Hồ Chí Minh vẫn kiên trì theo đuổi khả năng hòa bình, sớm kết thúc chiến
tranh. Người đã nhiều lần viết thư bày tỏ lập trường hòa bình, hữu nghị của
dân tộc Việt
Khi Mỹ thay chân Pháp trực tiếp dấn sâu vào
cuộc chiến tranh xâm lược Việt
Trong tình thế bất đắc dĩ buộc phải sử dụng đến
sức mạnh quân sự thì tư tưởng chủ đạo của Hồ Chí Minh là phải giảm tối đa sự
đổ máu không chỉ của quân dân ta mà ngay cả kẻ địch. Hồ Chí Minh đã thể hiện
đầy đủ lòng nhân ái, khoan dung của một người cộng sản, một người yêu nước
chân chính, một lãnh tụ cách mạng có tầm nhìn xa ngay từ việc xác định kẻ
thù. Hồ Chí Minh hướng cuộc đấu tranh của nhân dân ta vào kẻ thù phản động
nguy hiểm nhất. Trong quá trình tiến tới và nổ ra cuộc Tổng khởi nghĩa Tháng Tám
năm 1945, Hồ Chí Minh cùng với Đảng lãnh đạo nhân dân tập trung đánh vào
những tên phản động đầu sỏ, cô lập và trung lập quân Nhật, để vua Bảo Đại
thoái vị, không gây nên cảnh "nồi da xáo thịt", giảm bớt những hận
thù. Trong cuộc trường kỳ kháng chiến chống thực dân Pháp xâm lược nước ta
lần thứ hai (1945-1954), Hồ Chí Minh đã phân biệt rất rõ thực dân phản động
Pháp với chủ nghĩa thực dân nói chung, tập trung đánh vào bọn phản động.
Tính nhân văn, nhân đạo của Hồ Chí Minh trong
phương thức, hình thức đấu tranh “bạo lực cách mạng” đã làm cho tập đoàn cầm
quyền hiếu chiến của nước Mỹ bị cô lập đến cao độ. Họ không chỉ bị đồng minh
lảng tránh mà còn bị nhân dân Mỹ phản đối gay gắt trong cuộc chiến tranh xâm
lược Việt
XUÂN BỘ VÀ TẤN TUÂN (QĐND)
(1) Hồ Chí Minh,
Toàn tập, tập 4, Nhà xuất bản Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2011, tr. 522.
(2) Hồ Chí Minh,
Toàn tập, Sđd, tập 5, tr.14.
(3) Hồ Chí Minh,
Toàn tập, Sđd, tập 5, tr.41- 42.
(4) Hồ Chí Minh,
Toàn tập, Sđd, tập 5, tr.138.
(5) Hồ Chí Minh,
Toàn tập, Sđd, tập 14, tr.661.
(6) Hồ Chí Minh,
Toàn tập, Sđd, tập 15, tr.492.
(7) Hồ Chí Minh,
Toàn tập, Sđd, tập 5, tr.36.
(8) Hồ Chí Minh,
Toàn tập, Sđd, tập 5, tr.155.
(9) Hồ Chí Minh,
Toàn tập, Sđd, tập 5, tr.494 - 495.
(10) Hồ Chí Minh,
Toàn tập, Sđd, tập 11, tr.114-115.
Bài 2: Yêu
thương, khoan dung, cảm hóa con người để muôn đời tắt lửa chiến tranh
QĐND
- Cùng với việc phủ nhận tính nhân văn, nhân đạo cao cả trong tư tưởng quân
sự Hồ Chí Minh, một số người thiếu thiện chí còn ngụy biện cho rằng, nhân văn
Hồ Chí Minh là chủ nghĩa nhân văn trừu tượng, nhân văn không có thật, nhân
văn chỉ tồn tại trong lời nói, chứ không hiện hữu trong thực tiễn cách mạng.
Thực chất, đó là một kiểu suy diễn thiếu căn cứ khoa học, không tôn trọng thực
tiễn khách quan.
Nhiều công trình nghiên cứu của các chuyên
gia trong nước và trên thế giới đều thống nhất chỉ rõ: Tư tưởng nhân văn quân
sự (NVQS) Hồ Chí Minh là kết quả hoạt động tư duy và thực tiễn lãnh đạo, chỉ
đạo cũng như tổ chức thực hiện hoạt động quân sự, quốc phòng của Người. Tư
tưởng đó phản ánh sâu sắc quan điểm về con người trong hoạt động quân sự,
quốc phòng, nhất là trong đấu tranh vũ trang và chiến tranh cách mạng để giải
phóng con người, vì con người. Tư tưởng NVQS Hồ Chí Minh còn là sự phản ánh
nhân cách và sự nghiệp của Người, trong đó tính chất nhân đạo, chính nghĩa
của bạo lực cách mạng là nội dung cốt lõi trong tư tưởng NVQS Hồ Chí Minh; nó
là một trong những nội dung trực tiếp góp phần bổ sung, phát triển và làm
phong phú thêm kho tàng di sản tư tưởng NVQS Việt Nam, thể hiện rõ nét ở
những nội dung sau:
Hết lòng yêu thương bộ đội và quần
chúng nhân dân
Không đúng như cách ngụy tạo của những kẻ
xấu tìm cách xuyên tạc, bôi nhọ thần tượng Hồ Chí Minh. Thực tiễn cho thấy,
tình yêu thương con người của Chủ tịch Hồ Chí Minh không chung chung, không
trừu tượng, mà luôn cụ thể, sinh động, thiết thực. Trong lĩnh vực quân sự, đó
là tư tưởng “cán bộ phải thương yêu chiến sĩ”.
Là người lãnh đạo tối cao sự nghiệp đấu
tranh giải phóng dân tộc Việt
Người khẳng định, đối với Quân đội ta, việc
dụng binh là việc nhân nghĩa, để cứu dân, cứu nước. Quan điểm đó xuất phát từ
lòng quý trọng con người, tiết kiệm xương máu của bộ đội và nhân dân trong
chiến tranh của Hồ Chí Minh. Người xác định, chúng ta chỉ tiến hành chiến
tranh khi không còn con đường nào khác, không còn bất kỳ tia hy vọng nào để
cứu vãn hòa bình do kẻ thù ngoan cố và hiếu chiến. Vì thế, chúng ta luôn phải
chuẩn bị lực lượng và sẵn sàng, khi đã chiến đấu bảo vệ Tổ quốc và nhân dân
thì phải chủ động và kiên quyết, không ngừng thế tiến công để kết thúc chiến
tranh một cách có lợi nhất. Trong điều kiện lực lượng ta và địch quá chênh
lệch thì “Đánh bại ý chí xâm lược từng bước, đi đến đánh bại hoàn toàn ý chí
xâm lược của kẻ thù”(2). Trong chiến tranh cũng như trong mọi trận chiến đấu,
Người yêu cầu cán bộ phải biết quý trọng con người, quý trọng máu xương của
bộ đội.
Lời nói luôn gắn với hành động. Chủ
tịch Hồ Chí Minh là một tấm gương sáng, tiêu biểu về tình thương yêu đối với cán
bộ, chiến sĩ. Bằng những hành động và việc làm hằng ngày của mình, Người đã
nêu tấm gương mẫu mực về sự quan tâm, săn sóc, gần gũi với đời sống cán bộ,
chiến sĩ một cách chân thành, giản dị, bao dung. Những hành động rất đỗi tự
nhiên, nhưng chan chứa tình người của Bác, như bóp chân cho chiến sĩ đêm
khuya canh gác cho Bác, do sơ ý bị ngã xuống hố tránh bom tại Chiến khu Việt
Bắc. Bác phê bình đồng chí Tư lệnh Hải quân, khi bộ đội đảo Vạn Hoa ở ven
biển mà thiếu cá ăn. Bác tặng chị Lý (người con gái anh hùng đất Quảng ra Bắc
điều trị bệnh) nhiều quà, từ lọ nước hoa đến chai mật ong, chiếc áo len chống
rét, mấy thước vải hoa, túi chườm nước nóng, chiếc quạt giấy, lọ cắm hoa và
cả chiếc va-li Người đang dùng. Bác nhường tiền nhuận bút viết báo của mình
để bộ đội phòng không mua nước uống trực chiến trên tháp pháo. Bác nhường áo
trấn thủ cho người chiến sĩ đi tuần đêm bị nhiễm lạnh. Bác đi chúc Tết và mời
anh em bảo vệ đến xông nhà cho Bác. Bác giúp anh thương binh không còn hai
tay khi đi vệ sinh tại Phủ Chủ tịch, khi được Bác mời dự gặp mặt. Bác tặng chiếc
đồng hồ của mình cho người chiến sĩ chuẩn bị vào
Như vậy, tư tưởng NVQS và cuộc đời Hồ Chí
Minh đều toát lên tình yêu thương, sự tôn trọng, thái độ bao dung của Hồ Chí
Minh với những người hoạt động trong lĩnh vực quân sự. Bằng hành động và ứng
xử của mình, Người không chỉ truyền lại cho mỗi cán bộ quân đội đạo lý làm
người là phải biết yêu thương con người và sống với nhau có tình, có nghĩa,
mà còn phải biết thương yêu chiến sĩ như những người em, người con, người
thân trong gia đình. Đó là phẩm chất, là đạo lý nhân văn cao cả và cốt lõi
của người cán bộ của đội quân cách mạng mà Người dày công xây dựng, vun đắp.
Nhân đạo, khoan dung với kẻ thù
Trong tư tưởng NVQS Hồ Chí Minh, đối
với địch, dù họ là kẻ đi xâm lược, không phân biệt màu da hay quốc tịch, Hồ Chí
Minh đều coi họ là con người. Theo Hồ Chí Minh, họ cũng có Tổ quốc, có cha,
mẹ, có anh em và bạn bè, họ cũng muốn sống và phải được sống. Vì thế, đừng để
họ phải chết uổng công, vô ích. Trong thư trả lời Tổng thống Mỹ Ri-sớt
Ních-xơn, Hồ Chí Minh chỉ ra: “Chiến tranh kéo dài làm cho nước Mỹ càng hao người
tốn của. Tôi vô cùng công phẫn trước những tổn thất và tàn phá do quân Mỹ gây
ra cho nhân dân và đất nước chúng tôi; tôi cũng rất xúc động thấy ngày càng
có nhiều thanh niên Mỹ chết vô ích ở Việt Nam vì chính sách của nhà cầm quyền
Mỹ. Trong số 25.000 binh sĩ Mỹ bị Chính phủ Mỹ đưa sang tham chiến ở miền
Nam, đã có hàng trăm người chết, hàng nghìn người bị thương. Tức là hàng trăm
nghìn chị em phụ nữ Mỹ đã bị mất chồng, mất cha, mất con, hoặc mất người
yêu!”(3).
Trong chiến tranh, phía ta và bên địch đều
phải đổ máu, hy sinh. Ai chết cũng vậy, Người đều đau thương, xem đó là kết
quả từ tội ác của những người chủ mưu gây ra cuộc chiến tranh phi nghĩa.
Người cho rằng “máu nào cũng là máu, người nào cũng là người”, “những dòng
máu đó đều quý như nhau”, nên đã là con người thì phải được bảo vệ. Bởi vậy,
ngay trong tư tưởng và hành động, không ở đâu, chưa khi nào Người chủ trương
“giết sạch, đốt sạch” để trả thù bọn thực dân, đế quốc, mà chỉ tỏ rõ quyết
tâm: “Đánh cho Mỹ cút, đánh cho ngụy nhào”.
Đối với tù binh, hàng binh và những đối
tượng có quan điểm và lợi ích đối lập với ta, Người luôn trân trọng phần thiện
ở họ. Bằng nhiều cách, Người đã khai thác và tìm cách nhân lên tình người còn
tiềm ẩn trong họ, giúp họ nhận ra lẽ phải để cải tà, quy chính. Nhờ độ lượng,
vị tha, bằng những chủ trương, chính sách và cách xử lý “thấu lý, đạt tình”,
Hồ Chí Minh đã tạo sức thuyết phục, cảm hóa đối với kẻ thù, đã thức tỉnh
lương tri, quy tụ nhiều người lầm lỗi trở về với cách mạng, ủng hộ cuộc đấu
tranh chính nghĩa của nhân dân ta. Với lòng nhân ái, vị tha, Hồ Chí Minh luôn
đề cao chính sách đối xử nhân đạo với tù, hàng binh và những người lầm lỗi đã
có “thiện tâm”, “phục đức”. Người nhắc nhở quân và dân ta cần đối xử khoan
hồng với tù, hàng binh. Người chỉ thị: “Đối với những người Pháp bị bắt trong
lúc chiến tranh, ta phải canh phòng cẩn thận, nhưng phải đối đãi với họ cho
khoan hồng. Phải làm cho thế giới, trước hết là làm cho dân Pháp biết rằng: Chúng
ta là quang minh chính đại. Chúng ta chỉ đòi quyền độc lập tự do, chứ chúng
ta không vì tư thù tư oán, làm cho thế giới biết rằng chúng ta là một dân tộc
văn minh, văn minh hơn bọn đi giết người cướp nước”(4). Bản thân Người đã
nhiều lần gặp gỡ tù binh, hàng binh, thăm hỏi gia đình, sức khỏe, sự đối đãi
của phía ta đối với họ. Trong một bức thư gửi tới Người, 135 tù binh đã tỏ
lòng “cảm kích sâu sắc trước tấm lòng độ lượng của Ngài đối với chúng tôi”.
Tư tưởng nhân văn, nhân đạo, khoan dung
của Hồ Chí Minh với tù, hàng binh đã được Đảng, Nhà nước và nhân dân ta vận
dụng xuyên suốt trong các cuộc kháng chiến. Ngay sau Chiến dịch Biên giới
(1950), Chủ tịch Hồ Chí Minh đã ký quyết định ân xá, thả cả hai sĩ quan chỉ
huy binh đoàn Lơ-pa-giơ và Sác-tông, cùng hàng trăm tù binh của Pháp. Ngay
trước Chiến dịch Điện Biên Phủ, ngày 30-3-1953, Chủ tịch Hồ Chí Minh ký quyết
định thả 200 tù binh người Bắc Phi. Trong thư gửi cho những tù binh này,
Người viết: "Tôi biết rằng, đó không phải lỗi của các bạn, các bạn đều
là nạn nhân buộc phải cầm súng chiến đấu cho thực dân Pháp". Người còn
viết: “Tôi nghĩ rằng, đến một ngày gần đây hai dân tộc Pháp-Việt có thể cùng
cộng tác trong hòa bình và thân ái, để mưu cầu hạnh phúc cho hai dân tộc”. Hồ
Chí Minh giải thích với tù binh: "Các ông biết chiến tranh là chiến
tranh. Quân đội Việt
Chính lòng nhân đạo, khoan dung của Hồ Chí
Minh trong việc xác định đúng kẻ thù và đối đãi với tù binh, hàng binh và
người lầm lỡ quay trở lại với nhân dân, với cách mạng, đã làm giảm đi nhiều
tổn thất trong các cuộc chiến tranh, nhất là làm dịu mối hận thù giữa hai dân
tộc, hai quốc gia đối địch trong chiến tranh. Cố Thủ tướng Ấn Độ P.J.Nê-ru
từng viết: “Người (Hồ Chí Minh) là một con người của quần chúng, một lãnh tụ
có sự kết hợp hiếm có giữa lòng khoan dung tột độ và ý chí nhất; xét theo bất
cứ tiêu chuẩn nào Người cũng là một nhân vật nổi bật nhất trong thời đại
chúng ta”(5).
Thực hiện tư tưởng của Người, lòng nhân
đạo đối với tù binh, hàng binh địch được nhân dân ta vận dụng rất thành công
trong chiến tranh chống đế quốc Mỹ xâm lược. Tù binh và hàng binh Mỹ đều được
đối xử rất nhân đạo, được giáo dục và trả về đoàn tụ cùng gia đình, có người
sau này trở thành thượng nghị sĩ và Đại sứ Mỹ ở Việt
------------
(1) Hồ Chí Minh, Toàn tập, tập 7, Nhà xuất bản
Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2011, tr.219.
(2) Tư tưởng Hồ Chí Minh và con đường cách mạng
Việt
(3) Hồ Chí Minh, Toàn tập, Sđd, tập 12, tr.488.
(4) Hồ Chí Minh, Toàn tập, Sđd, tập 4, tr.29-30.
(5) Viện Hồ Chí Minh, Hồ Chí Minh sống mãi trong
trái tim nhân loại, Nhà xuất bản Lao Động và Nhà xuất bản Quân đội nhân dân,
Hà Nội, 1993.
(Theo QĐND) XUÂN BỘ và TẤN TUÂN
|
Thứ Hai, 18 tháng 5, 2015
Đăng ký:
Đăng Nhận xét (Atom)
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét