Thứ Hai, 18 tháng 5, 2015

Tư tưởng nhân văn quân sự Hồ Chí Minh - Hệ giá trị nhân văn tự phát sáng  
Cập nhật lúc 14:01

QĐND - LTS: Trong dịp toàn Đảng, toàn dân, toàn quân đẩy mạnh các hoạt động chào mừng kỷ niệm 125 năm Ngày sinh Chủ tịch Hồ Chí Minh (19-5-1890 /19-5-2015), khá nhiều trang mạng nước ngoài và blog cá nhân dẫn đăng một số bài viết với nội dung cố tình bôi nhọ, hạ thấp giá trị tư tưởng quân sự Hồ Chí Minh.
Thực chất của những luận điệu đó là nhằm xuyên tạc tư tưởng và những cống hiến to lớn của lãnh tụ Hồ Chí Minh với sự nghiệp cách mạng và xây dựng Quân đội nhân dân “cách mạng, chính quy, tinh nhuệ, từng bước hiện đại”. Báo Quân đội nhân dân giới thiệu vệt bài với nhiều luận cứ khoa học, tư liệu lịch sử, nhằm vạch trần những thủ đoạn xuyên tạc, bội nhọ nêu trên.
 “Bạo lực cách mạng” vì độc lập, tự do thiêng liêng của Tổ quốc
“Nếu không bị uy hiếp, chúng ta không cần có tự vệ”
Đầu tháng 5-2015, Đài BBC tiếng Việt và Đài RFA đều dẫn đăng một bài viết bịa đặt trắng trợn nhiều chi tiết lịch sử, viện dẫn những ý kiến của nhiều thành phần bất hảo, phản động, rồi hồ đồ “kết luận”: Chính tư tưởng về “bạo lực cách mạng”, nhất là quan điểm “bạo lực cách mạng triệt để” và “niềm say sưa bạo lực” của Hồ Chí Minh đã tạo nên đội quân cộng sản hiếu chiến, kích động chiến tranh và tạo ra sự hy sinh không cần thiết trong hai cuộc kháng chiến chống Pháp và chống Mỹ xâm lược…
Cần khẳng định rằng, đó là những luận điệu bịa đặt trắng trợn, không chỉ ảnh hưởng đến giá trị tư tưởng, đạo đức Hồ Chí Minh mà còn xúc phạm đến danh dự, tình cảm của con người và dân tộc Việt Nam. Lịch sử nhân loại ghi nhận Hồ Chí Minh là nhà văn hóa lớn, sứ giả của hòa bình và tình hữu nghị, lãnh tụ của cách mạng Việt Nam, người cha già muôn vàn kính yêu của các dân tộc Việt Nam. Nhân loại cũng ghi nhận Hồ Chí Minh là nhà quân sự thiên tài với những tư tưởng cách mạng, tư tưởng quân sự mang tầm thời đại. Chính Người đã kế tục, phát triển những nội hàm về “bạo lực cách mạng” sát với thực tiễn cách mạng Việt Nam, biến nó trở thành kim chỉ nam cho hoạt động đấu tranh giải phóng dân tộc, giúp quân và dân ta đi hết thắng lợi này, đến thắng lợi khác, đánh đuổi giặc ngoại xâm, mang lại hòa bình cho dân tộc và thúc đẩy hòa bình thế giới. Đó là những tư tưởng quân sự mang tính nhân văn, nhân đạo sâu sắc.


Bác Hồ với bà con nông dân. Ảnh tư liệu.
Do yêu cầu cách mạng, đặc biệt là do phong cách giản dị của Hồ Chủ tịch, nên Người không đề tên một bài nói, bài viết nào của mình bàn về chủ nghĩa nhân văn nói chung, hay tư tưởng nhân văn quân sự nói riêng. Nhưng chủ nghĩa nhân văn Hồ Chí Minh đã toát ra từ toàn bộ cuộc đời hoạt động cách mạng, tư tưởng và sự nghiệp mà Người đã tạo dựng. Thực tiễn cho thấy, mọi nhận thức và hoạt động lãnh đạo, chỉ đạo lĩnh vực quân sự của Hồ Chí Minh đều toát lên những giá trị nhân văn cao cả, không chỉ chúng ta mà những người từng là đối tượng tác chiến ở bên kia chiến tuyến cũng phải thừa nhận. Đó là cơ sở vững chắc phủ nhận luận điệu cho rằng, “Hồ Chí Minh là người đam mê, say sưa bạo lực, đã gây nên sự hy sinh không cần thiết trong hai cuộc kháng chiến chống Pháp và chống Mỹ”...
Đối với Hồ Chí Minh, việc phải tiến hành vũ trang là để tự vệ, bảo vệ chính dân tộc, nhân dân mình trước sự tấn công của các đội quân xâm lược mà lại là các đội quân có quân số đông, được trang bị vũ khí đầy đủ, hiện đại hơn, được huấn luyện chu đáo, chuyên nghiệp. Cuộc chiến tranh mà chúng ta buộc phải tiến hành là “chiến tranh chính nghĩa”, “chiến tranh tự vệ”; chiến tranh là giải pháp cuối cùng, còn một phút có thể tranh thủ, hy vọng đẩy lùi chiến tranh vẫn cứ tận dụng. Đây là điều mà Hồ Chí Minh đã nhiều lần khẳng định trước toàn thế giới và được nhân loại có lương tri ủng hộ, giúp đỡ rất to lớn, có hiệu quả. Như vậy, việc dụng binh là việc nhân nghĩa, trừ ác diệt tà để cứu nước, cứu dân theo tư tưởng Chủ tịch Hồ Chí Minh, hoàn toàn trái ngược với tư tưởng sùng bái, đam mê bạo lực.
Như chúng ta đã biết, sau Cách mạng Tháng Tám chưa đầy một tháng, với âm mưu cướp nước ta một lần nữa, ngày 23-9-1945, thực dân Pháp tiếp tục nổ súng, gây hấn ở Nam Bộ, buộc nhân dân ta phải bước vào cuộc chiến tranh tự vệ mới. Trong bài nói chuyện tại Trường Cán bộ tự vệ Hồ Chí Minh (7-1-1946), Người giải thích: “Nếu không bị uy hiếp, chúng ta không cần có tự vệ. Tự vệ là vệ lấy mình, lấy gia đình mình, rồi đến thành phố mình, nước mình. Ta phải ngăn ngừa mọi sự uy hiếp”. Như vậy, vũ trang tự vệ theo tư tưởng của Người hoàn toàn đối lập với vũ trang xâm lược của các lực lượng hiếu chiến với mưu đồ nô dịch, thống trị dân tộc khác. Vũ trang tự vệ là hoạt động quân sự chính nghĩa của một dân tộc yêu chuộng hòa bình, không bao giờ muốn chiến tranh. Do vậy, nó được sử dụng để giành và bảo vệ chính quyền cách mạng, bảo vệ tính mạng, tài sản của nhân dân trước sự xâm lược của ngoại bang, nên nó thể hiện rõ tính chất nhân văn, nhân đạo. Bởi vậy, khi thực dân Pháp lộ rõ mưu đồ cướp nước ta một lần nữa, Hồ Chí Minh đã vạch rõ: “Là nạn nhân của một cuộc xâm lược có chủ định từ trước, chúng tôi buộc phải tự vệ chống lại một đối phương đang thực hiện phương pháp của một cuộc chiến tranh tổng lực, như những cuộc bắn phá dã man làng mạc và dân thường” (1).
Cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp của nhân dân Việt Nam là cuộc chiến tranh tự vệ bắt buộc để bảo vệ chính quyền non trẻ, bảo vệ quyền tự quyết dân tộc, bảo vệ danh dự và nhân phẩm của một dân tộc. Tuy nhiên, cuộc chiến tranh đó chỉ để đánh bại ý chí xâm lược của một số kẻ hiếu chiến. Theo Hồ Chí Minh, “Nhân dân Việt Nam đã bị chính sách vũ lực, chính sách xâm lăng của một vài người đại diện Pháp ở Đông Dương xô đẩy vào một cuộc chiến tranh tự vệ thảm khốc” (2) và “Chính sách vũ lực mà các nhà đại diện Pháp ở Đông Dương vẫn áp dụng từ trước tới nay, đã buộc dân tộc Việt Nam phải võ trang tự vệ” (3). Người viết: “… Chúng tôi không muốn chiến tranh, nhưng chúng tôi quyết tự vệ đến giọt máu cuối cùng. Chúng tôi quyết không chịu mất nước làm nô lệ thực dân lần nữa. Mong Chính phủ, Nghị viện và nhân dân Pháp hiểu cho. Mong các nước dân chủ trên thế giới hiểu cho” (4). Với tinh thần tự vệ và ý chí tự lực, tự cường cao cả, dưới sự lãnh đạo của Đảng và Chủ tịch Hồ Chí Minh, nhân dân ta đã làm nên chiến thắng ngày 7-5-1954 lừng lẫy Điện Biên, chấn động địa cầu.
Cuộc chiến tranh tự vệ chống đế quốc Mỹ mà nhân dân Việt Nam tiến hành, chẳng những có giá trị nhân văn, nhân đạo đối với dân tộc Việt Nam, mà còn đối với khu vực và thế giới. Người chỉ rõ: “Nhân dân Việt Nam chúng tôi phải kiên quyết đấu tranh chống đế quốc Mỹ xâm lược để tự vệ, để bảo vệ những quyền dân tộc thiêng liêng nhất của mình, đồng thời góp phần giữ gìn hòa bình ở châu Á và thế giới” (5). Với tinh thần “Không có gì quý hơn độc lập, tự do”, cuộc chiến tranh tự vệ của nhân dân ta đã giành thắng lợi hoàn toàn, đúng như dự báo của Hồ Chí Minh là: “Đế quốc Mỹ đang tiến hành một cuộc chiến tranh xâm lược tàn bạo nhất trong lịch sử chống nhân dân Việt Nam. Sử dụng quyền tự vệ thiêng liêng của mình, toàn thể nhân dân Việt Nam đã kiên quyết chống lại để bảo vệ độc lập, tự do và đã liên tiếp giành được những thắng lợi to lớn và nhất định sẽ giành được thắng lợi cuối cùng” (6).
Phương thức đấu tranh cuối cùng
Suốt quá trình lãnh đạo, chỉ đạo cách mạng, Chủ tịch Hồ Chí Minh luôn hướng tới một nền hòa bình cho dân tộc Việt Nam và xây dựng tình hữu nghị với nhân dân Pháp, Mỹ. Bằng rất nhiều sách lược khôn khéo, kể cả nhân nhượng cần thiết, Hồ Chí Minh muốn tránh cuộc chiến tranh Pháp - Việt lần thứ hai (1945-1954) và cuộc chiến tranh Việt - Mỹ (1954-1975), nhưng đều bị đối phương cự tuyệt. Nhân dân Việt Nam buộc phải kháng chiến chống đế quốc Pháp và đế quốc Mỹ. Tuy nhiên, trong quá trình lãnh đạo, chỉ đạo kháng chiến, Hồ Chí Minh vẫn kiên trì theo đuổi khả năng hòa bình, sớm kết thúc chiến tranh. Người đã nhiều lần viết thư bày tỏ lập trường hòa bình, hữu nghị của dân tộc Việt Nam. Trong thư gửi Tổng thống Pháp (18-1-1947), Hồ Chí Minh viết: “Tôi xin nói để ngài rõ là dân tộc Việt Nam chỉ mong được độc lập và thống nhất trong khối Liên hiệp Pháp. Tôi rất đau lòng trông thấy những người đáng lẽ là bạn bè anh em với nhau, mà nay phải tàn sát lẫn nhau. Chúng ta có thể và chúng ta phải đi tới hòa bình để cứu sống cho bao thanh niên Pháp-Việt” (7). Đây là tư tưởng, quan điểm hết sức nhân văn, nhân đạo của Người, cũng vì sự nhân văn, nhân đạo cao cả để cứu toàn thể dân tộc Việt Nam khỏi ách nô lệ. Hồ Chí Minh đã tỏ rõ lập trường và lòng tin vào thắng lợi của mình: “Chúng tôi muốn hòa bình. Chúng tôi muốn nước chúng tôi độc lập và thống nhất... Bọn quân phiệt thực dân đã bắt buộc chúng tôi phải tiếp tục chiến đấu, chúng tôi sẽ chiến đấu đến cùng, chúng tôi lấy câu châm ngôn hiên ngang của các bạn làm châm ngôn của chúng tôi: “Thà chết không làm nô lệ”. Chúng tôi chiến đấu vì công lý. Chúng tôi sẽ tồn tại; chúng tôi sẽ chiến thắng” (8).
Khi Mỹ thay chân Pháp trực tiếp dấn sâu vào cuộc chiến tranh xâm lược Việt Nam, Hồ Chí Minh đã nói thẳng với Tổng thống Mỹ Ken-nơ-đi rằng: “Việt Nam xa cách Hoa Kỳ hàng vạn dặm. Nhân dân Việt Nam và nhân dân Hoa Kỳ không thù oán gì nhau. Ông có lý do gì mà gây nên cuộc chiến tranh xâm lược ở miền Nam Việt Nam, hoang phí hàng tỷ đô-la của nhân dân Hoa Kỳ để ủng hộ một chính quyền thối nát độc tài… Ông có quyền gì mà bắt buộc hàng vạn thanh niên con em người Hoa Kỳ sang giết hại người miền Nam Việt Nam vô tội rồi họ cũng bị chết trong cuộc chiến tranh phi nghĩa, bẩn thỉu ấy?” (9). Trả lời phóng viên của tuần báo Mỹ, Chủ tịch Hồ Chí Minh nói: “Cho tới khi hàng vạn người đã bị giết hại một cách tàn nhẫn và hàng chục vạn người khác bị giam cầm chết dần chết mòn trong các nhà tù và trại tập trung của bọn Ngô Đình Diệm, đồng bào chúng tôi ở miền Nam mới thấy không có con đường nào khác, ngoài con đường chiến đấu để bảo vệ đời sống của mình và gia đình mình. Họ đau đớn phải lựa chọn giữa hai con đường, hoặc là cầm vũ khí chiến đấu hoặc là bị tiêu diệt” (10).
Trong tình thế bất đắc dĩ buộc phải sử dụng đến sức mạnh quân sự thì tư tưởng chủ đạo của Hồ Chí Minh là phải giảm tối đa sự đổ máu không chỉ của quân dân ta mà ngay cả kẻ địch. Hồ Chí Minh đã thể hiện đầy đủ lòng nhân ái, khoan dung của một người cộng sản, một người yêu nước chân chính, một lãnh tụ cách mạng có tầm nhìn xa ngay từ việc xác định kẻ thù. Hồ Chí Minh hướng cuộc đấu tranh của nhân dân ta vào kẻ thù phản động nguy hiểm nhất. Trong quá trình tiến tới và nổ ra cuộc Tổng khởi nghĩa Tháng Tám năm 1945, Hồ Chí Minh cùng với Đảng lãnh đạo nhân dân tập trung đánh vào những tên phản động đầu sỏ, cô lập và trung lập quân Nhật, để vua Bảo Đại thoái vị, không gây nên cảnh "nồi da xáo thịt", giảm bớt những hận thù. Trong cuộc trường kỳ kháng chiến chống thực dân Pháp xâm lược nước ta lần thứ hai (1945-1954), Hồ Chí Minh đã phân biệt rất rõ thực dân phản động Pháp với chủ nghĩa thực dân nói chung, tập trung đánh vào bọn phản động.
Tính nhân văn, nhân đạo của Hồ Chí Minh trong phương thức, hình thức đấu tranh “bạo lực cách mạng” đã làm cho tập đoàn cầm quyền hiếu chiến của nước Mỹ bị cô lập đến cao độ. Họ không chỉ bị đồng minh lảng tránh mà còn bị nhân dân Mỹ phản đối gay gắt trong cuộc chiến tranh xâm lược Việt Nam. Bọn phản động, tay sai của Mỹ ở miền Nam Việt Nam thực tế đã không có chỗ đứng trong nhân dân, bị tiến công liên tục và cuối cùng bị sụp đổ.
XUÂN BỘ VÀ TẤN TUÂN (QĐND)
(1) Hồ Chí Minh, Toàn tập, tập 4, Nhà xuất bản Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2011, tr. 522.
(2) Hồ Chí Minh, Toàn tập, Sđd, tập 5, tr.14.
(3) Hồ Chí Minh, Toàn tập, Sđd, tập 5, tr.41- 42.
(4) Hồ Chí Minh, Toàn tập, Sđd, tập 5, tr.138.
(5) Hồ Chí Minh, Toàn tập, Sđd, tập 14, tr.661.
(6) Hồ Chí Minh, Toàn tập, Sđd, tập 15, tr.492.
(7) Hồ Chí Minh, Toàn tập, Sđd, tập 5, tr.36.
(8) Hồ Chí Minh, Toàn tập, Sđd, tập 5, tr.155.
(9) Hồ Chí Minh, Toàn tập, Sđd, tập 5, tr.494 - 495.
(10) Hồ Chí Minh, Toàn tập, Sđd, tập 11, tr.114-115.
Bài 2: Yêu thương, khoan dung, cảm hóa con người để muôn đời tắt lửa chiến tranh

QĐND - Cùng với việc phủ nhận tính nhân văn, nhân đạo cao cả trong tư tưởng quân sự Hồ Chí Minh, một số người thiếu thiện chí còn ngụy biện cho rằng, nhân văn Hồ Chí Minh là chủ nghĩa nhân văn trừu tượng, nhân văn không có thật, nhân văn chỉ tồn tại trong lời nói, chứ không hiện hữu trong thực tiễn cách mạng. Thực chất, đó là một kiểu suy diễn thiếu căn cứ khoa học, không tôn trọng thực tiễn khách quan.
Nhiều công trình nghiên cứu của các chuyên gia trong nước và trên thế giới đều thống nhất chỉ rõ: Tư tưởng nhân văn quân sự (NVQS) Hồ Chí Minh là kết quả hoạt động tư duy và thực tiễn lãnh đạo, chỉ đạo cũng như tổ chức thực hiện hoạt động quân sự, quốc phòng của Người. Tư tưởng đó phản ánh sâu sắc quan điểm về con người trong hoạt động quân sự, quốc phòng, nhất là trong đấu tranh vũ trang và chiến tranh cách mạng để giải phóng con người, vì con người. Tư tưởng NVQS Hồ Chí Minh còn là sự phản ánh nhân cách và sự nghiệp của Người, trong đó tính chất nhân đạo, chính nghĩa của bạo lực cách mạng là nội dung cốt lõi trong tư tưởng NVQS Hồ Chí Minh; nó là một trong những nội dung trực tiếp góp phần bổ sung, phát triển và làm phong phú thêm kho tàng di sản tư tưởng NVQS Việt Nam, thể hiện rõ nét ở những nội dung sau:
Hết lòng yêu thương bộ đội và quần chúng nhân dân
Không đúng như cách ngụy tạo của những kẻ xấu tìm cách xuyên tạc, bôi nhọ thần tượng Hồ Chí Minh. Thực tiễn cho thấy, tình yêu thương con người của Chủ tịch Hồ Chí Minh không chung chung, không trừu tượng, mà luôn cụ thể, sinh động, thiết thực. Trong lĩnh vực quân sự, đó là tư tưởng “cán bộ phải thương yêu chiến sĩ”.
Là người lãnh đạo tối cao sự nghiệp đấu tranh giải phóng dân tộc Việt Nam, Chủ tịch Hồ Chí Minh thường xuyên nêu gương và nhắc nhở cán bộ lãnh đạo, chỉ huy các cấp về tinh thần yêu thương cấp dưới, yêu thương chiến sĩ. Trong những lần đến thăm, đến làm việc, kiểm tra hay trong thư gửi các đơn vị, Người thường xuyên căn dặn, nhắc nhở: “Cán bộ, chiến sĩ phải đoàn kết thương yêu đùm bọc nhau”, “phải thật lòng thương yêu binh sĩ”, “cán bộ phải thương yêu đội viên”. Năm 1951, đến thăm và nói chuyện tại Trường Chính trị trung cấp quân đội, Người xác định: “Cán bộ phải thương yêu chiến sĩ”(1)… Đây là thuật từ cơ bản mà Người thường dùng để yêu cầu và chỉ ra nội hàm về tình yêu thương của người cán bộ lãnh đạo, chỉ huy, quản lý các cấp đối với cấp dưới và chiến sĩ trong LLVT nhân dân Việt Nam
 
Chủ tịch Hồ Chí Minh. Ảnh tư liệu.
Người khẳng định, đối với Quân đội ta, việc dụng binh là việc nhân nghĩa, để cứu dân, cứu nước. Quan điểm đó xuất phát từ lòng quý trọng con người, tiết kiệm xương máu của bộ đội và nhân dân trong chiến tranh của Hồ Chí Minh. Người xác định, chúng ta chỉ tiến hành chiến tranh khi không còn con đường nào khác, không còn bất kỳ tia hy vọng nào để cứu vãn hòa bình do kẻ thù ngoan cố và hiếu chiến. Vì thế, chúng ta luôn phải chuẩn bị lực lượng và sẵn sàng, khi đã chiến đấu bảo vệ Tổ quốc và nhân dân thì phải chủ động và kiên quyết, không ngừng thế tiến công để kết thúc chiến tranh một cách có lợi nhất. Trong điều kiện lực lượng ta và địch quá chênh lệch thì “Đánh bại ý chí xâm lược từng bước, đi đến đánh bại hoàn toàn ý chí xâm lược của kẻ thù”(2). Trong chiến tranh cũng như trong mọi trận chiến đấu, Người yêu cầu cán bộ phải biết quý trọng con người, quý trọng máu xương của bộ đội.
Lời nói luôn gắn với hành động. Chủ tịch Hồ Chí Minh là một tấm gương sáng, tiêu biểu về tình thương yêu đối với cán bộ, chiến sĩ. Bằng những hành động và việc làm hằng ngày của mình, Người đã nêu tấm gương mẫu mực về sự quan tâm, săn sóc, gần gũi với đời sống cán bộ, chiến sĩ một cách chân thành, giản dị, bao dung. Những hành động rất đỗi tự nhiên, nhưng chan chứa tình người của Bác, như bóp chân cho chiến sĩ đêm khuya canh gác cho Bác, do sơ ý bị ngã xuống hố tránh bom tại Chiến khu Việt Bắc. Bác phê bình đồng chí Tư lệnh Hải quân, khi bộ đội đảo Vạn Hoa ở ven biển mà thiếu cá ăn. Bác tặng chị Lý (người con gái anh hùng đất Quảng ra Bắc điều trị bệnh) nhiều quà, từ lọ nước hoa đến chai mật ong, chiếc áo len chống rét, mấy thước vải hoa, túi chườm nước nóng, chiếc quạt giấy, lọ cắm hoa và cả chiếc va-li Người đang dùng. Bác nhường tiền nhuận bút viết báo của mình để bộ đội phòng không mua nước uống trực chiến trên tháp pháo. Bác nhường áo trấn thủ cho người chiến sĩ đi tuần đêm bị nhiễm lạnh. Bác đi chúc Tết và mời anh em bảo vệ đến xông nhà cho Bác. Bác giúp anh thương binh không còn hai tay khi đi vệ sinh tại Phủ Chủ tịch, khi được Bác mời dự gặp mặt. Bác tặng chiếc đồng hồ của mình cho người chiến sĩ chuẩn bị vào Nam đánh giặc… Đến khi viết những dòng Di chúc cuối cùng, Chủ tịch Hồ Chí Minh cũng không quên dặn dò Đảng, Nhà nước phải quan tâm đến thương binh, bệnh binh, gia đình liệt sĩ và nhất là công ăn việc làm của bộ đội phục viên, chuyển ngành khi cuộc kháng chiến của ta hoàn toàn thắng lợi.
Như vậy, tư tưởng NVQS và cuộc đời Hồ Chí Minh đều toát lên tình yêu thương, sự tôn trọng, thái độ bao dung của Hồ Chí Minh với những người hoạt động trong lĩnh vực quân sự. Bằng hành động và ứng xử của mình, Người không chỉ truyền lại cho mỗi cán bộ quân đội đạo lý làm người là phải biết yêu thương con người và sống với nhau có tình, có nghĩa, mà còn phải biết thương yêu chiến sĩ như những người em, người con, người thân trong gia đình. Đó là phẩm chất, là đạo lý nhân văn cao cả và cốt lõi của người cán bộ của đội quân cách mạng mà Người dày công xây dựng, vun đắp.
Nhân đạo, khoan dung với kẻ thù
Trong tư tưởng NVQS Hồ Chí Minh, đối với địch, dù họ là kẻ đi xâm lược, không phân biệt màu da hay quốc tịch, Hồ Chí Minh đều coi họ là con người. Theo Hồ Chí Minh, họ cũng có Tổ quốc, có cha, mẹ, có anh em và bạn bè, họ cũng muốn sống và phải được sống. Vì thế, đừng để họ phải chết uổng công, vô ích. Trong thư trả lời Tổng thống Mỹ Ri-sớt Ních-xơn, Hồ Chí Minh chỉ ra: “Chiến tranh kéo dài làm cho nước Mỹ càng hao người tốn của. Tôi vô cùng công phẫn trước những tổn thất và tàn phá do quân Mỹ gây ra cho nhân dân và đất nước chúng tôi; tôi cũng rất xúc động thấy ngày càng có nhiều thanh niên Mỹ chết vô ích ở Việt Nam vì chính sách của nhà cầm quyền Mỹ. Trong số 25.000 binh sĩ Mỹ bị Chính phủ Mỹ đưa sang tham chiến ở miền Nam, đã có hàng trăm người chết, hàng nghìn người bị thương. Tức là hàng trăm nghìn chị em phụ nữ Mỹ đã bị mất chồng, mất cha, mất con, hoặc mất người yêu!”(3).
Trong chiến tranh, phía ta và bên địch đều phải đổ máu, hy sinh. Ai chết cũng vậy, Người đều đau thương, xem đó là kết quả từ tội ác của những người chủ mưu gây ra cuộc chiến tranh phi nghĩa. Người cho rằng “máu nào cũng là máu, người nào cũng là người”, “những dòng máu đó đều quý như nhau”, nên đã là con người thì phải được bảo vệ. Bởi vậy, ngay trong tư tưởng và hành động, không ở đâu, chưa khi nào Người chủ trương “giết sạch, đốt sạch” để trả thù bọn thực dân, đế quốc, mà chỉ tỏ rõ quyết tâm: “Đánh cho Mỹ cút, đánh cho ngụy nhào”.
Đối với tù binh, hàng binh và những đối tượng có quan điểm và lợi ích đối lập với ta, Người luôn trân trọng phần thiện ở họ. Bằng nhiều cách, Người đã khai thác và tìm cách nhân lên tình người còn tiềm ẩn trong họ, giúp họ nhận ra lẽ phải để cải tà, quy chính. Nhờ độ lượng, vị tha, bằng những chủ trương, chính sách và cách xử lý “thấu lý, đạt tình”, Hồ Chí Minh đã tạo sức thuyết phục, cảm hóa đối với kẻ thù, đã thức tỉnh lương tri, quy tụ nhiều người lầm lỗi trở về với cách mạng, ủng hộ cuộc đấu tranh chính nghĩa của nhân dân ta. Với lòng nhân ái, vị tha, Hồ Chí Minh luôn đề cao chính sách đối xử nhân đạo với tù, hàng binh và những người lầm lỗi đã có “thiện tâm”, “phục đức”. Người nhắc nhở quân và dân ta cần đối xử khoan hồng với tù, hàng binh. Người chỉ thị: “Đối với những người Pháp bị bắt trong lúc chiến tranh, ta phải canh phòng cẩn thận, nhưng phải đối đãi với họ cho khoan hồng. Phải làm cho thế giới, trước hết là làm cho dân Pháp biết rằng: Chúng ta là quang minh chính đại. Chúng ta chỉ đòi quyền độc lập tự do, chứ chúng ta không vì tư thù tư oán, làm cho thế giới biết rằng chúng ta là một dân tộc văn minh, văn minh hơn bọn đi giết người cướp nước”(4). Bản thân Người đã nhiều lần gặp gỡ tù binh, hàng binh, thăm hỏi gia đình, sức khỏe, sự đối đãi của phía ta đối với họ. Trong một bức thư gửi tới Người, 135 tù binh đã tỏ lòng “cảm kích sâu sắc trước tấm lòng độ lượng của Ngài đối với chúng tôi”.
Tư tưởng nhân văn, nhân đạo, khoan dung của Hồ Chí Minh với tù, hàng binh đã được Đảng, Nhà nước và nhân dân ta vận dụng xuyên suốt trong các cuộc kháng chiến. Ngay sau Chiến dịch Biên giới (1950), Chủ tịch Hồ Chí Minh đã ký quyết định ân xá, thả cả hai sĩ quan chỉ huy binh đoàn Lơ-pa-giơ và Sác-tông, cùng hàng trăm tù binh của Pháp. Ngay trước Chiến dịch Điện Biên Phủ, ngày 30-3-1953, Chủ tịch Hồ Chí Minh ký quyết định thả 200 tù binh người Bắc Phi. Trong thư gửi cho những tù binh này, Người viết: "Tôi biết rằng, đó không phải lỗi của các bạn, các bạn đều là nạn nhân buộc phải cầm súng chiến đấu cho thực dân Pháp". Người còn viết: “Tôi nghĩ rằng, đến một ngày gần đây hai dân tộc Pháp-Việt có thể cùng cộng tác trong hòa bình và thân ái, để mưu cầu hạnh phúc cho hai dân tộc”. Hồ Chí Minh giải thích với tù binh: "Các ông biết chiến tranh là chiến tranh. Quân đội Việt Nam chỉ làm chiến tranh trong các trận đánh, sau trận đánh đối với quân đội bại trận, Quân đội Việt Nam coi các binh sĩ như người dân Pháp". Trong một lần đến thăm tù binh, Bác còn cởi cả áo khoác của mình cho một sĩ quan Pháp đang bị sốt rét...
Chính lòng nhân đạo, khoan dung của Hồ Chí Minh trong việc xác định đúng kẻ thù và đối đãi với tù binh, hàng binh và người lầm lỡ quay trở lại với nhân dân, với cách mạng, đã làm giảm đi nhiều tổn thất trong các cuộc chiến tranh, nhất là làm dịu mối hận thù giữa hai dân tộc, hai quốc gia đối địch trong chiến tranh. Cố Thủ tướng Ấn Độ P.J.Nê-ru từng viết: “Người (Hồ Chí Minh) là một con người của quần chúng, một lãnh tụ có sự kết hợp hiếm có giữa lòng khoan dung tột độ và ý chí nhất; xét theo bất cứ tiêu chuẩn nào Người cũng là một nhân vật nổi bật nhất trong thời đại chúng ta”(5).
Thực hiện tư tưởng của Người, lòng nhân đạo đối với tù binh, hàng binh địch được nhân dân ta vận dụng rất thành công trong chiến tranh chống đế quốc Mỹ xâm lược. Tù binh và hàng binh Mỹ đều được đối xử rất nhân đạo, được giáo dục và trả về đoàn tụ cùng gia đình, có người sau này trở thành thượng nghị sĩ và Đại sứ Mỹ ở Việt Nam. Nhiều tù binh có tình cảm tốt với nhân dân ta và chính họ đã bắc nhịp cầu nối lại tình đoàn kết giữa hai dân tộc, mở ra phương hướng hợp tác mới giữa hai quốc gia. Truyền thống đại nghĩa và nhân văn gắn liền với quyết tâm bảo vệ Tổ quốc thể hiện qua các cuộc kháng chiến chống ngoại xâm là thông điệp mà nhân dân ta muốn gửi tới các tổ chức và nhân dân yêu chuộng hòa bình trên toàn thế giới; đồng thời cũng là lời cảnh báo nghiêm khắc đối với các thế lực thù địch có âm mưu chống phá công cuộc đổi mới trên đất nước ta, hoặc xâm phạm độc lập, chủ quyền và toàn vẹn lãnh thổ của Tổ quốc Việt Nam.
------------
(1) Hồ Chí Minh, Toàn tập, tập 7, Nhà xuất bản Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2011, tr.219.
(2) Tư tưởng Hồ Chí Minh và con đường cách mạng Việt Nam, Nhà xuất bản Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2000, tr.252.
(3) Hồ Chí Minh, Toàn tập, Sđd, tập 12, tr.488.
(4) Hồ Chí Minh, Toàn tập, Sđd, tập 4, tr.29-30.
(5) Viện Hồ Chí Minh, Hồ Chí Minh sống mãi trong trái tim nhân loại, Nhà xuất bản Lao Động và Nhà xuất bản Quân đội nhân dân, Hà Nội, 1993.
(Theo QĐND) XUÂN BỘ và TẤN TUÂN

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét