Màu
“đồng chí”
Cập nhật lúc 10:12
(GDVN)-“Màu đồng chí” không chỉ đơn thuần chỉ là màu đỏ
trên lá cờ mà còn là màu đỏ của máu hàng vạn người dân Việt
Trong thế giới động vật, Kỳ nhông được xem là bậc
thầy về biến đổi màu sắc cơ thể. Trong các khoa học mà loài người nghiên cứu,
chỉ có "Lịch sử" là luôn thay đổi màu sắc, chẳng thế mà người ta
hay nói: “trang sử chói lọi của dân tộc” hay “thời kỳ đen tối của lịch sử”
hay “thời hoàng kim của lịch sử” …
Không phải là thực dụng khi người ta nói: “Không có bạn bè
hay kẻ thù vĩnh viễn, chỉ có chủ quyền quốc gia, dân tộc là vĩnh viễn”. Một
khi chủ quyền quốc gia là tối thượng thì quan hệ bạn bè, đồng chí phải xếp
vào hàng thứ yếu, những sự kiện đang xảy ra trên biển Đông khiến người ta
phải hỏi: “Phải chăng quan hệ đồng chí trong con mắt giới lãnh đạo Trung Quốc
cũng thay đổi màu sắc như Kỳ nhông?”
Gần hai ngàn năm trước, sau khi đem binh hùng tướng mạnh
nhà Hán sang đàn áp cuộc khởi nghĩa của Hai Bà Trưng, Mã Viện đã tịch thu
trống đồng của người Việt để đúc lên chiếc cột đồng với lời tuyên bố láo xược
“đồng trụ chiết, Giao Chỉ diệt” (cột đồng mà đổ thì Giao Chỉ (Việt Nam cổ) sẽ
bị diệt vong).
Thời kỳ bắc thuộc kéo dài hàng nghìn năm tưởng chừng đã
xóa tên nước Việt khỏi bản đồ thế giới, thế nhưng với bao cuộc khởi nghĩa bị
dìm trong bể máu, với ý chí độc lập không gì ngăn cản được, người Việt và
nước Việt vẫn tồn tại và ngày càng mạnh mẽ. Hàng trăm bộ tộc Việt ở phía nam
sông Dương Tử, kể cả nước Việt của Việt vương Câu Tiễn rốt cuộc cũng bị người
Hán đồng hóa, chỉ còn lại hai bộ tộc Âu Việt và Lạc Việt lập nên nước Âu Lạc
tức Việt Nam ngày nay.
Theo triết lý của đạo Phật: “Trong sắc có không, trong
không có sắc”, dù bị người Hán tìm đủ cách đồng hóa người, trong đêm dài nô
lệ vẫn âm ỉ ngọn lửa hồng của niềm tin vào một ngày đất nước sạch bóng ngoại
bang. Lòng yêu nước, của ý chí tự cường là di sản mà tổ tiên để lại đã thấm
vào máu người Việt từ thủa khai sơn, lập quốc.
Khi vua Minh Chu Do Kiểm (tức Sùng Trinh) ngạo mạn ra vế
đối: “Đồng trụ chí kim đài dĩ lục” (Cột đồng đến giờ rêu vẫn mọc xanh) với
phái bộ sứ thần nước Việt thì Thám hoa Giang Văn Minh, dẫn đầu phái bộ đã
kiêu hãnh đáp: "Đằng Giang tự cổ huyết do hồng" (Sông Bạch Đằng từ
xưa máu vẫn loang đỏ).
Điểm lại đôi nét lịch sử giữa hai quốc gia Việt Nam -
Trung Quốc để thấy, vấn đề xuyên suốt mấy nghìn năm qua là Trung Quốc luôn
muốn bành trướng xuống phía nam, luôn muốn Việt Nam trở thành quận huyện của
Trung Quốc, chí ít cũng trở thành chư hầu nghe theo lời chỉ bảo của Trung
Quốc.
Khi chủ nghĩa cộng sản phát triển, người ta có một niềm
tin ngây thơ về thế giới đại đồng, các quốc gia cùng ý thức hệ sẽ chung một
mái nhà, rằng tình đồng chí là sợi chỉ đỏ xuyên suốt mọi hoạt chính trị, kinh
tế, xã hội… Điều này có vẻ đúng trong nửa đầu thế kỷ 20, khi đó “màu
đồng chí” thường là màu đỏ.
Trong cái đỏ nhiệt huyết, đỏ cách mạng, người ta vẫn thấy
cái vằn đỏ trong ánh mắt của “đồng chí” phương Bắc, “màu đồng chí” không chỉ
đơn thuần chỉ là màu đỏ trên lá cờ mà còn là màu đỏ của máu hàng vạn người
dân Việt ở biên giới Tây Nam do bọn Pôn Pốt gây ra dưới sự giật dây của “đồng
chí”, là máu của hàng vạn chiến sĩ chúng ta đã đổ trong cuộc chiến chống xâm
lược năm 1979 mà các “đồng chí” khoe là “dạy cho Việt Nam một bài học”.
Sau năm 1979, màu “đồng chí” lúc vàng lúc xanh, vàng vì
hàng ngày, hàng giờ khắp núi rừng biên giới không lúc nào bình yên, hết cột
mốc bị dịch chuyển, đến tung tiền mua rễ cây, lá cây khiến cây vàng lá
chết lụi. Xanh vì hàng trăm hecta rừng biên giới được thuê làm gì không biết,
xanh vì những lồng bè rình rập trên sóng biển Nha Trang khi bị phát hiện thì
“đồng chí” vội bỏ chạy về nước.
Cho đến hôm nay, màu “đồng chí” không đỏ vàng hay xanh, nó
đã trở thành màu đen, màu của dầu mỏ ngoài biển Đông, màu của lòng tham, của
sự dối trá, thói hợm hĩnh của kẻ giàu và coi thường đạo lý.
Ông Tập Cận Bình, lãnh đạo Trung Quốc cho rằng “người
Trung quốc không có gen xâm lược”? Quả đúng như vậy, tập hợp toàn bộ tinh hoa
của nhân loại để phân tích bản đồ gen người cũng không tìm được “gen xâm
lược”. Thế mới thấy sự thâm trầm của người mà ta ngộ nhận là “đồng chí”. Ông
Tập Cận Bình không dại gì mà nói rằng Trung Quốc không hề mang quân đi xâm
lược nước khác, nói thế thiên hạ không cười trước mặt thì cũng cười sau lưng.
Người ta không khỏi thắc mắc Tôn Tử viết binh pháp để làm
gì? Phải chăng binh pháp Tôn Tử chỉ để dành cho người Hoa đánh lẫn nhau?
Những đạo quân Trung Quốc từ đời Hán, Đường đến đời “đồng chí” tấn công Việt
Nam không với mục đích xâm lược thì vì mục đích gì?
Trong số 10 vị nguyên soái khai quốc công thần của Trung
Quốc, chín người đã nhận cái chết một cách buồn thảm chưa kể Chủ tịch nước
Lưu Thiếu Kỳ. Đối đãi với đồng chí trong nước còn như thế thì người ta còn
ngại gì với các “đồng chí” nước ngoài?
Suy cho cùng, sự thị uy, ra oai của các con thú to với bầy
thú nhỏ cũng là điều bình thường trong thế giới động vật. Những loài nhỏ bé
cần có vũ khí tự vệ để không bị tiêu diệt, quan trọng không phải là sức mạnh,
loài gấu to là thế chỉ bị vài con ong bé tẹo đốt là phải bỏ chạy.
Trong thế kỷ 20, không có bất kỳ dân tộc nào như người
Việt đã phải cầm súng chiến đấu với bốn kẻ địch mạnh nhất thế giới là Pháp,
Mỹ, Nhật, Trung Quốc. Sự tôi luyện trong chiến tranh khiến người Việt không
biết sợ bọn xâm lược, tuy nhiên sự cảnh giác không bao giờ thừa. Các nước lớn
luôn có những thỏa thuận trên lưng nước nhỏ, trước kia người ta mong chúng ta
cứ đánh nhau với Mỹ càng lâu càng tốt, ngày nay nhiều nước lại muốn chúng ta đánh
nhau với Trung Quốc. Những lời hứa, những sự mách nước đều xuất phát từ quyền
lợi của chính họ, nếu chiến tranh nổ ra bên thứ ba mới là kẻ hưởng lợi.
Người Việt cần một trái tim nóng trong cái đầu lạnh, chỉ
cần biển Đông không yên ổn, dòng hàng hóa bị tắc nghẽn thì nhiều nền kinh tế
sẽ rơi vào khủng hoảng, đó mới là điều mà chúng ta cần quan tâm để bảo vệ tổ
quốc. Những biểu hiện quá khích không phải là điều kẻ mạnh theo đuổi.
Chúng ta không nhằm vào những người Trung Quốc làm ăn trên
đất Việt nếu họ là người lao động bình thường, tuân thủ pháp luật Việt Nam,
chúng ta cũng không vơ đũa cả nắm như người nào đó rằng “người Trung Quốc
không có gen xâm lược”. Đa số người dân lao động Trung Quốc cũng đang bị lừa
bịp, bị nhồi sọ bởi chủ nghĩa dân tộc hẹp hòi, họ không đáng bị ghét, đương
nhiên bọn do thám, gián điệp, bọn làm ăn phi pháp thì phải nghiêm trị.
Kinh dịch của người Trung Quốc coi số chẵn là số tử, đặc
biệt là số 4 ứng với bước tử trong tiến trình “sinh, lão, bệnh, tử”, vì lẽ đó
người ta không làm bậc cầu thang chia hết cho 2 hoặc cho 4. Quan hệ đối ngoại
Việt Nam - Trung Quốc từng dựa vào “16 chữ vàng” và “4 tốt”, xem ra cả hai
con số này đều rơi vào bước tử, chúng ta chẳng trông mong được gì vào cái
khẩu hiệu mà người ta vẽ ra nhằm che mắt kẻ khờ. Nếu cần phải chọn, hãy chọn
số 9, đó là nơi thượng đế ngự trị (9 tầng mây) đó chính là 9 từ trong lời dạy
của Cụ Hồ: “Không có gì quý hơn độc lập tự do”.
Đã đến lúc, chúng ta nên tự hỏi sau màu đen, màu “đồng
chí” sẽ là màu gì? Hãy sòng phẳng với họ và cũng sòng phẳng với dân để tránh
ảo tưởng về một người bạn đang thủ dao găm trong túi.
Nếu phải đối đầu trong cuộc chiến, người Việt sẽ không rút
gươm trước kẻ thù nhưng sẽ là người tra gươm vào vỏ sau cùng./.
(Theo Giáo dục VN) Xuân
Dương
|
Thứ Hai, 19 tháng 5, 2014
Đăng ký:
Đăng Nhận xét (Atom)
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét