Việt Nam- Nhà nước đầu tiên xác lập chủ quyền ở Hoàng
Sa, Trường Sa
Cập nhật lúc 09:47
Trung Quốc đã trích dẫn nhiều dẫn chứng trong các sách địa
lý để chứng minh chủ quyền của mình đối với hai quần đảo Hoàng Sa và Trường
Sa. Qua nghiên cứu thấy rằng, đúng là các đảo này đã được ghi nhận và mô tả trong
đó nhưng chúng chỉ dừng lại ở việc ghi chép những hiểu biết của người Trung
Quốc đương thời về địa lý, lịch sử, phong tục… các nước thuộc khu vực Đông
Nam Á và Nam Á và đường hàng hải từ Trung Quốc ra nước ngoài, không có bất kỳ
sự ghi chép nào về việc nhân dân Trung Quốc "đến hai quần đảo này hàng
hải, sản xuất". Các tác phẩm đó chỉ được xem như các tài liệu chứng minh
sự hiểu biết chung các địa điểm chứ không có ý nghĩa đáng kể trong pháp lý,
nhờ đó, có thể đặt hai quần đảo Hoàng Sa, Trường Sa thuộc chủ quyền của Trung
Quốc. Cụ thể:
Nam Châu dị vật chí của Vạn Chấn (thời Tam Quốc, 220-265)
viết dưới triều Hán Vũ Đế là cuốn sách hướng dẫn hằng hải trong Biển Đông
nhưng lại rất không chính xác, không thể căn cứ vào đó để xác minh được quần đảo
này hay quần đảo khác trong số hai quần đảo ngày nay đang bị tranh chấp.
Phù Nam truyện của Khang Thái viết cùng thời kỳ này ghi
nhận rằng, đã gặp trong Trướng Hải các đảo san hô và khẳng định đây là những
mô tả về quần đảo Trường Sa. Tuy nhiên, đoạn trích này rất mơ hồ, rất thiếu
chính xác, không thể căn cứ vào đó để nói rằng đó chính là Trường Sa.
Các tác phẩm khác như Lĩnh ngoại đại đáp của Chu Khứ Phi
(đời Tống, 1178), Chư phiên chí của Triệu Nhữ Quát (đời Tống, 1225), Đảo di
chí lược của Vương Đại Uyên (đời Nguyên, 1349), Đông Tây dương khảo của Trương
Nhiếp (1618), Vũ bị chí của Mao Nguyên Nghi (1628), Hải quốc văn kiến lục
viết dưới đời Thanh, Hải Lục của Vương Bính Nam (1820), Hải quốc đồ chí của
Ngụy Nguyên (1848) và Doanh hoàn chí lược của Bành Ôn Chương (1848),vv… là
một tập hợp các tác phẩm liên quan đến các chuyến đi, các chuyến khảo địa lý,
sách hằng hải liên quan tới các nước bên ngoài Trung Quốc.
Ông Nguyễn Đình Đầu, Ủy viên
Ban chấp hành Hội Sử học Việt
Ông Nguyễn Đình Đầu, Ủy viên Ban chấp hành Hội Sử học Việt
Nam cho rằng, thật khó có thể chấp nhận với các tác giả Trung Quốc khi họ rút
ra từ đó kết luận: Hoàng Sa, Trường Sa từ lầu đã là lãnh thổ của Trung Quốc:
“Bản đồ cổ của Trung Hoa vẽ về Việt Nam vào khoảng đầu thế kỷ XV ghi rõ địa
điểm của Việt Nam là Giao chỉ quốc, nước Giao chỉ và biển thì ghi rõ là Giao
chỉ dương, tức là ghi rõ đất liền là Giao chỉ quốc và biển là biển của Giao
chỉ.
Hàng trăm bản đồ quốc tế khác cũng đều chỉ rõ Hoàng Sa,
Trường Sa là của Việt
Tất cả đều rất thống nhất với nhau.”
Người Trung Quốc còn đưa ra các dẫn chứng khác để cố chứng
minh chủ quyền đối với hai quần đảo này.
Đó là dưới thời Bắc Tống (thế kỷ thứ X-XII), các cuộc tuần
tra quân sự của nước này đã được tổ chức, xuất phát từ Quảng Đông đi tới
Hoàng Sa, rồi kết luận rằng "triều đình Bắc Tống đã đặt quần đảo Tây Sa
và phạm vi cai quản của mình", "hải quân Trung Quốc đã đi tuần tra
đến vùng quần đảo Tây Sa". Tuy nhiên, khi phân tích kỹ dữ liệu này thấy
rằng, đó không phải là cuộc tuần tra mà chỉ là chuyến thăm do địa lý cho tới
tận Ấn Độ Dương, không minh chứng một sự chiếm hữu nào.
Sự kiện thứ hai là việc Bộ Ngoại giao Trung Quốc dẫn sự
kiện đo đạc thiên văn đầu đời Nguyên ở "Nam Hải" để nói rằng
"quần đảo Tây Sa đã nằm trong cương vực Trung Quốc đời Nguyên".
Theo Nguyên Sử, bộ sử chính thức của nhà Nguyên, việc đo
đạc thiên văn đầu đời Nguyên được ghi chép như sau: "Việc đo bóng mặt
trời bốn biển ở hai mươi bảy nơi, Phía Đông đến Cao Ly, phía Tây đến Điền
Trì, phía
Từ sự ghi chép trong Nguyên Sử, thấy rõ việc đo đạc thiên
văn ở hai mươi bảy nơi không phải là "đo đạc" "toàn quốc"
như văn kiện của Bắc Kinh nói mà là "đo đạc bốn biển", cho nên mới
có cả một số nơi ngoài "cương vực Trung Quốc" như Cao Ly nay là Triều
Tiên, Thiết Lặc nay thuộc vùng Xi-bia của Nga, Nam Hải tức Biển Đông.
Mặt khác, chính Nguyên Sử cũng đã nói rõ "cương
vực" Trung Quốc đời Nguyên, phía Nam chỉ đến đảo Hải Nam.
Cuối cùng, người Trung Quốc đưa ra các tài liệu về một
cuộc tuần biển được tổ chức trong khoảng các năm 1710-1712 dưới triều nhà
Thanh. Ngô Thăng, Phó tướng thủy quân Quảng Đông đã chỉ huy chuyến đi này.
Người Trung Quốc khẳng định đã đi qua vùng biển tương ứng với vùng biển của quần
đảo Hoàng Sa và kết luận rằng, vùng biển này “lúc đó do hải quân tỉnh Quang
Đông phụ trách tuần tiễu”. Tuy nhiên, nếu dõi theo hành trình này trên bản
đồ, dễ dàng nhận xét rằng, đó chỉ là một con đường đi vòng quanh đảo Hải
Quan trọng hơn, ông Phạm Hoàng Quân, nhà nghiên cứu độc
lập chuyên về cổ sử và cổ địa dư Trung Quốc cho rằng, những tài liệu do phía
Trung Quốc đưa ra không có tính pháp lý: “Thời xưa, Trung Quốc có những nhà
du hành, hằng hải, những thương thuyền, họ đi giao thiệp về chuyện buôn bán
thì trong quá trình đi, họ nhìn thấy những vùng đảo, ghi chép thì đó là dạng
sách du ký. Đó là những tài liệu không có tính pháp lý. Trung Quốc thường dựa
vào các sách đó để nói rằng, nước này đã từng biết đến đảo này, chứ không
phải tài liệu chính thống của Trung Quốc. Việc xác lập chủ quyền thì những
điều được biên chép phải nằm trong trong chính sử hoặc trong sách mà bây giờ
mình gọi địa chí, Trung Quốc gọi là phương chí-đó là những phương tiện được
Nhà nước thừa nhận..”
Rõ ràng, Trung Quốc không phải là quốc gia đầu tiên kiểm
soát thực sự các quần đảo Hoàng Sa, Trường Sa vì nó thiếu hẳn các yêu cầu mà
luật quốc tế thời đó đòi hỏi.
Cần biết thêm rằng, từ thế kỷ thứ XVI đến thế kỷ thứ XVII
đã có sự phân biệt rất rõ ràng giữa phát hiện thăm dò (discover) và phát hiện
chiếm hữu (to find). Năm 1523, Vua Charles V đã nhắc nhở Đại sứ của mình, ông
Juan de Zunigo rằng, một lãnh thổ mà các tàu thuyền của Vương quốc Bồ Đào Nha
gặp trên đường đi thì không thể được coi là đã mang lại cho họ một danh nghĩa
trên lãnh thổ đó vì nó thiếu một hành vi chiếm hữu.
Các tham vọng của Trung Quốc còn mâu thuẫn bởi chính các
nguồn tư liệu của nước này. Theo đó, có nhiều tài liệu địa lý cổ mô tả và nói
rõ lãnh thổ của nước này có điểm tận cùng ở phía
Ông Phạm Hoàng Quân, nhà nghiên cứu độc lập chuyên về cổ
sử và cổ địa dư Trung Quốc cho biết: “Từ đời Hán đến đời Thanh đều có những
bộ chính sử của triều đại, các mục địa lý chí nhưng chưa từng biên chép gì về
hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa. Đó là điểm để người ta nhận ra rằng, Trung
Quốc chưa từng xem nó thuộc về phần đất của họ. Các phần địa lý chí đều có
mục xác nhận đơn vị hành chính nước này đến huyện Nhai, phủ Quỳnh Châu, tức
là đảo Hải
Qua việc xem xét kỹ các tư liệu do người Trung Quốc đưa
ra, bà Monique Chemillier Gendreau, giáo sư công pháp và khoa học chính trị ở
Trường Đại học Paris VII Denis Diderot, nguyên Chủ tịch Hội luật gia dân chủ Pháp,
nguyên Chủ tịch Hội luật gia châu Âu kết luận: người Trung Quốc cách đây khá
lâu đã biết ở Biển Đông có nhiều đảo mọc rải rác nhưng chúng không đủ làm cơ
sở pháp lý để bảo vệ cho lập luận rằng, Trung Quốc là nước đầu tiên phát
hiện, khai phá, khai thác và quản lý hai quần đảo này.
Với bao công sức tìm tòi, lắp ghép, xây dựng lý lẽ trong
mấy chục năm qua, Trung Quốc vẫn không chứng minh được rằng nước này đã chiếm
hữu các quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa từ bao giờ, đã thực hiện "chủ
quyền" đó ra sao. Đó là một việc mà họ không bao giờ có thể làm được. Vì
lý do đơn giản là: Từ trước tới nay, quần đảo Hoàng Sa và quần đảo Trường Sa
mà nhà cầm quyền Trung Quốc gọi là "Tây Sa" và "Nam Sa"
chưa bao giờ là lãnh thổ Trung Quốc.
Trong khi đó, các tài liệu của Việt
Nhiều sách địa lý và bản đồ cổ của Việt Nam ghi chép rõ
Bãi Cát Vàng, Hoàng Sa, Vạn lý Hoàng Sa, Đại Trường Sa hoặc Vạn lý Trường Sa
từ lâu đã là lãnh thổ Việt Nam.
Toàn tập Thiên Nam từ chí lộ đồ thư, được soạn vẽ vào thế
kỷ XVII, ghi rõ trong lời chú giải bản đồ vùng Phủ Quảng Ngãi, xứ Quảng Nam:
"giữa biển có một bãi cát dài, gọi là Bãi Cát Vàng", "Họ
Nguyễn mỗi năm vào tháng cuối mùa Đông đưa mười tám chiếc thuyền đến lấy hoá
vật, được phần nhiều là vàng bạc, tiền tệ, súng đạn".
Ông Nguyễn Đình Đầu, Ủy viên Ban chấp hành Hội Sử học Việt
Nam chỉ rõ: “Các hải đảo của Việt Nam như Trường Sa, Hoàng Sa được vẽ từ năm
1490 trong Hồng Đức bản đồ. Sau này, nhà Nguyễn (1838) vẽ bản đồ trong Đại nam
nhất thống toàn đồ cũng chỉ rõ, ở bên cạnh, gần miền Trung là quần đảo Hoàng
Sa, phí dưới ghi là Vạn Lý Trường Sa.”
Chứng cứ kế tiếp xác lập rõ ràng hơn chủ quyền của Việt
Nam là bộ sách Phủ Biên tạp lục, cuốn sách của nhà bác học Lê Quý Đôn viết về
lịch sử, địa lý, hành chính xứ Đàng Trong dưới thời chúa Nguyễn (1558-1775)
khi ông được triều bổ nhiệm phục vụ tại miền Nam, chép rõ đảo Đại Trường Sa (tức
Hoàng Sa và Trường Sa) thuộc phủ Quảng Ngãi. Đáng chú ý, bộ sách này còn nêu
rõ, Nhà nước phong kiến Việt
Lê Quý Đôn viết: “Trước họ Nguyễn đặt đội Hoàng Sa 70
suất, lấy người xã An Vĩnh sung vào, cắt phiên mỗi năm cứ tháng ba nhận giấy
sai đi, mang lương đủ ăn sáu tháng, đi bằng 5 chiếc thuyền tiểu câu ra biển 3
ngày 3 đêm thì đến các đảo ấy rồi ở lại đó. Tha hồ kiếm lượm, bắt chim bắt cá
mà ăn. Lấy được hóa vật của tàu, như là gươm ngựa, hoa bạc, tiền bạc, vòng
bạc, đồ đồng, thiếc khối, chì đen, súng, ngà voi, sáp ong, đồ sứ, đồ chiên
cùng là kiếm lượm mai đồi mồi, mai hải ba, hải sâm, hột ốc hoa, rất nhiều.
Đến kỳ tháng 8 thì về, vào cửa Eo, đến thành Phú Xuân để nộp. Cân và định
hạng xong mới cho đem bán riêng các thứ ốc hoa, hải ba, hải sâm, rỗi lĩnh
bằng trở về.
Họ Nguyễn lại đặt đội Bắc Hải, không định bao nhiêu
suất hoặc người thôn Tứ Chính ở Bình Thuận hoặc người xã Cảnh Dương, ai tình
nguyện đi thì cấp giấy sai đi, miễn cho tiền sưu cùng các tiền tuần đò, cho
đi thuyền tiểu câu ra các xứ Bắc Hải, Cù lao Côn Lôn và các đảo ở Hà Tiên, tìm
lượm hoá vật của tàu và các thứ đồi mồi, hải ba, bào ngư, hải sâm, cũng sai
cai đội Hoàng Sa kiêm quản".
Lê Quý Đôn còn ghi lại những sự kiện lịch sử xảy ra trước
đó, như một số trận đánh giữa hạm đội Hà Lan với thủy binh nhà Nguyễn.
Các sự kiện này chứng tỏ, thời ấy, nước ta đã rất chú ý tới việc kiểm soát
trên biển.
Rõ ràng, các tư liệu của Việt
Theo VOV.vn
|
Thứ Sáu, 23 tháng 5, 2014
Đăng ký:
Đăng Nhận xét (Atom)
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét