Tranh luận tiếp về tiếng Việt “lệch chuẩn”
Cập nhật lúc 21:10
VOV.VN - Ám ảnh sợ ngọng và “ép tiếng theo chữ” có thực sự
khoa học và hữu ích?
Trong bài viết thứ nhất về vấn đề “mất chuẩn”, tôi đã đề cập
nhiều đến chuyện chính tả. Trong bài thứ 2 này tôi xin được nêu câu chuyện…
khổ sở vì “cố theo chuẩn”.
Qua giới thiệu của nhà thơ Trần Đăng Khoa, thầy Thắng dạy tiếng
Pháp tập trung nhiều vào vấn đề âm (1) “s” /ʂ/ - “x” /s/, (2) “tr” /tʂ/ - “ch” /c/,
và (3) “d” /z/ - “gi”/ʐ/ - “r”/ɹ/, cũng như nói về sự xuống cấp của ngữ âm Việt.
Lập luận của thầy Thắng đồng nghĩa với việc nói rằng đa số phát
thanh viên, biên tập viên đã phát âm không chuẩn, vì đa số họ đều phát âm “s”
như “x”, “tr” như “ch”,...
Tôi đặc biệt ấn tượng khi nghe thầy kể về chuyến đi phiên dịch cho bên khí tượng thủy văn. Khi vị chuyên gia của ngành khí tượng thủy văn nói “20 xông” (ý là 20 con sông) thì thầy Thắng bảo không hiểu gì cả. Thật tình trong ngữ cảnh hẹp như vậy (thủy văn) dù tai nghe “20 xông” nhưng hình ảnh trong đầu tôi chỉ có thể là con sông (tất nhiên, việc bỏ đi từ “con” trước chữ “sông” quả có khiến việc hình dung khó khăn hơn một chút). Nếu rơi vào hoàn cảnh đó mà có băn khoăn thì đơn giản là tôi sẽ hỏi ngay bà tiến sĩ nọ rằng “chị nói “con sông” phải không ạ”.
Ngữ cảnh đóng vai trò rất quan trọng. Tiếng Hoa một âm tiết có
hàng chục nghĩa (tương ứng với các Hán tự khác nhau) nhưng khi nghe trong
giao tiếp hằng ngày (nghĩa là không được nhìn “văn bản” nhé), người Hoa vẫn
phân biệt tốt, họa hoằn lắm mới phải hỏi lại âm họ nghe thấy là được thể hiện
bằng chữ cụ thể nào.
Tiếng Việt do âm vị đa dạng hơn và vay từ vựng từ nhiều nguồn nên
“độ khó đoán” càng không đến mức đó. Các trường hợp nhầm lẫn do không rõ s-x,
tr-ch… mà thầy Thắng nêu có xác suất không cao, mà trên thực tế, ngữ cảnh
thường dễ dàng loại bỏ những chỗ “mù mờ”.
Liệu có ép được tiếng theo chữ?
Cách tiếp cận nói trên, theo thiển ý của tôi, có phần nào đó
thiếu biện chứng.
Có một thực tế dễ thấy là tiếng nói có trước, ký tự ghi lại ngôn
ngữ có sau. Phát âm mang tính chất động, còn chính tả mang tính chất tĩnh
hơn. Từ chữ tượng ý của người Ai Cập cổ đại, chữ tượng hình của Trung Hoa,
chữ ghi âm tiết của người Nhật, đến chữ ghi âm vị và âm tiết của người Latin
hay Slav cũng vậy thôi.
Về thực chất, chu trình ép tiếng theo
chữ là chu trình ngược, tức là “chữ đẻ ra tiếng”, âm thanh phải bị uốn theo
chữ.
>> Đọc phần 1: Phản biện Trần Đăng Khoa về tiếng Việt "lệch chuẩn" Đọc quan điểm của thầy, tôi chợt nhớ lại cô bạn hồi học cùng phổ thông. Cô này học rất giỏi, luôn chuẩn mực, và mặc dù sống giữa vùng đô thị của Hà Nội nhưng luôn cố uốn lưỡi để phát âm thật “đúng” phụ âm đầu của “sống, giục, rá”… Nghe cô đọc hoặc nói khá vất vả, thiếu tự nhiên, nhiều khi mặt đỏ lên vì nỗ lực hoặc do vấp chữ (nếu không cố uốn lưỡi cho chuẩn thì cô sẽ trôi chảy hơn nhiều). Trong lớp khi ấy, nhiều bạn khác nhìn cô với ánh mắt khó hiểu, số khác thì phì cười.
Trong các phương ngữ, tiếng Hà Nội có nhiều ưu điểm hơn cả (âm
tròn, trong, thanh điệu rõ ràng). Trong khi đó thổ ngữ miền Trung và
Tất nhiên nếu phát âm được như cô bạn của tôi thì sẽ là hoàn mỹ,
sẽ rất rõ ràng cho người nghe. Và tôi cũng rất xúc động khi thấy nhiều người
Nam Bộ “xịn” (kể các các ca sĩ nữa) đã cố gắng phát âm rõ chữ “Việt Nam” theo
chuẩn chung. Thật trùng hợp, thế giới cũng đọc
Có một thực tế là dù cách phát âm của người Hà Nội và người miền
Bắc bị coi là “xuống cấp” theo như cách nói của thầy Thắng khi không chịu
phân biệt “r-d-gi”, nhưng khi cần thiết, (chả ai ép cả) họ vẫn đọc “rung”
được âm “r” trong từ gốc nước ngoài như I-rắc (Iraq), Pa-ri (Paris), ra-đi-ô
(radio). Nếu ai đó đọc thành /pa zi/ (pa-di) hoặc “da-đi-ô” thì lập tức
mọi người nhận ngay ra và cho rằng như thế là “không chuẩn”, là có vấn đề.
Thậm chí người ta có thể xúm vào “trêu chọc” người nào phát âm như vậy… Ở đây
người Hà Nội tôn trọng cách đọc của tiếng gốc.
Như vậy, vấn đề không phải là ngọng hay không có ý thức mà là
thói quen phát âm của vùng Hà Nội và nhiều tỉnh miền bắc mang đặc thù như
vậy. Mà tiếng Hà Nội và tiếng miền Bắc thì hình thành từ trước khi xuất hiện
chữ Quốc ngữ trên cõi Việt
Thiết nghĩ đạt được thống nhất toàn quốc về chính tả là tốt lắm
rồi (dĩ nhiên tôi không có ý mọi người nên phát âm hoàn toàn ngẫu hứng). Các
nước Anh, Mỹ, Úc hay “Tàu” cũng thế cả. Đối với những chữ viết giống nhau,
nói chung họ cũng phát âm khác nhau. Chẳng hạn “Not bad” của người Anh là
khác với của Mỹ; “can’t” của Anh và Mỹ là khác nhau. Ngay các từ “old”, “car”
của hai “phương ngữ lớn Anh và Mỹ” cũng khác biệt. Trong nội bộ đảo quốc Anh,
tiếng Anh ở
Nếu phải lấy chuẩn ngữ âm thì đối với các cơ quan truyền thông
trung ương có thể lấy giọng Hà Nội, ở miền
Lúc nào “hữu chiêu” cũng là
tốt?
Lý luận bao giờ cũng sâu sắc, nhưng nếu thoát ly thực tế, thì như
nhà thơ Goethe của Đức từng viết, “sẽ mãi là màu xám xịt”, chỉ còn “cây đời
mãi mãi xanh tươi”. Nhân câu chuyện ngữ âm nói trên, tôi xin bàn luận thêm
mấy điểm sau:
1- Vấn đề “tuổi teen”
Đây là một trong những cách nói bị
nhiều người dị ứng và phê phán gay gắt. Tuy nhiên, trên thực tế nó vẫn tồn
tại, kể cả trên các báo chính thống… Vì khái niệm teen dùng chỉ độ tuổi từ
13-19 (ở Việt
Từ “chat” nếu dịch là trò chuyện, tán
ngẫu thì không chính xác, còn nếu nói là “tán gẫu trên mạng” hay “bút đàm qua
mạng internet” thì lại quá dài. Trước mắt, vay mượn của Tây tỏ ra hiệu quả
hơn; ngôn ngữ cùng xã hội sẽ vận động để tìm ra thuật ngữ khác phù hợp
hơn hoặc để đồng hóa các từ như thế tới mức giống như xà phòng, ti-vi… Tình hình
tương tự xảy ra với nhiều thuật ngữ trong công nghệ thông tin (internet,
website, bit, online, hack, ADSL…).
Sở dĩ tiếng Anh phong phú là vì nó không sợ vay mượn một lô một
lốc các từ ngữ của tiếng Latin, Hy Lạp và Pháp. Người Nhật có tinh thần dân
tộc rất cao, ngữ âm của họ lại đơn điệu (không phong phú và giàu nhạc điệu
như tiếng Việt) nhưng ngôn ngữ của họ cũng đầy rẫy từ gốc Anh, gốc Mỹ. Phải
chăng đấy là do tinh thần học hỏi của họ, và của công cuộc Minh Trị duy tân
nổi tiếng trong lịch sử?
Thực sự thì, bệnh sùng nội mù quáng nguy hiểm chẳng kém gì bệnh
sính ngoại thái quá. Khư khư giữ lại những gì mình có và quay lưng với các từ
ngoại lai (được đồng hóa) là bất lợi cho ngôn ngữ dân tộc và tư duy dân tộc.
Biết “mở cửa” hợp lý sẽ tạo điều kiện cho tiếng Việt được “cọ xát” và phát
triển.
Nếu để ý, chúng ta sẽ thấy khi chữ
“teen” gia nhập tiếng Việt thì nó đã bị Việt hóa rồi, phải “nhập gia tùy
tục”, phải chịu các áp lực của hệ thống mới. Trước hết là về mặt âm. Viết
teen nhưng đọc là /tin/ theo kiểu Việt Nam chứ không phải là [t’i:n] kiểu Anh
(bác nào mà cố tính đọc kiểu Anh thì một
là sẽ khó khăn vì
nó không thuần Việt, hai
là “lộ hàng” ngay,
trông rất “hợm” và có thể bị ném đá vì tội “điệu”). Về nghĩa thì ở Việt
Vì vậy, lo ngại Âu hóa đến mức hỏng tiếng Việt dường như là hơi
cả nghĩ?
Thực tế trong lịch sử, vì nhiều lý do tiếng Việt đã “giao lưu”
với nhiều thứ tiếng không chỉ ở châu Á mà cả châu Âu và nhờ đó trở nên giàu
có và phát triển hơn nhiều, có sức diễn đạt rất mạnh. Tiếp xúc với các ngôn
ngữ phương Tây, tiếng Việt không chỉ từ vựng phong phú hơn mà ngữ pháp của nó
cũng trở nên uyển chuyển hơn, đa dạng hơn, với nhiều hình thức mới (mô phỏng
theo ngữ pháp Tây, đặc biệt là của tiếng Pháp). Nhờ quá trình tiếp xúc ấy,
trong tiếng Việt hiện tượng danh hóa cùng cấu trúc bị động phổ biến hơn, giúp
tiếng Việt diễn đạt các vấn đề khoa học tốt hơn, tinh vi hơn. Nghe đâu cụ Đào
Duy Anh từng so sánh, thời xưa dịch từ tiếng Pháp sang tiếng Việt khó lắm vì
thời đó tiếng Việt còn nghèo nàn cả về từ vựng và ngữ pháp, chứ không được
như ngày nay.
2- Câu chuyện chữ “y” của Bộ
Giáo dục
Chuyện này nhỏ thôi nhưng cũng rất thú vị.
Bộ Giáo dục, và dường như cả Viện Ngôn ngữ học nữa, cổ xúy cho
nguyên tắc ký âm thống nhất và sát ngữ âm nhất, nên đề xướng tất cả không
viết “Tý, lý, Mỹ…” mà thay vào đó phải viết “Tí, lí, Mĩ…”). Thực tế sách giáo
khoa của Bộ Giáo dục đã áp dụng khá triệt để cách dùng này.
Nhưng các văn bản pháp luật, hành chính nhà nước, và quảng đại
sách báo vẫn có xu hướng viết “lý luận”, “nước Mỹ”,… một cách áp đảo. Ngoài
đường ta thấy cơ man các biển phố ghi “Lý Thường Kiệt, Lý Nhân Tông,...”.
Nhiều người vì điệu nên viết tên mình là Sỹ, Dy, Vy (nếu người
khác viết thành Sĩ, Di, Vi là có thể dỗi ngay đấy). Nhưng có những trường
hợp, dù có muốn điệu người ta vẫn tự động ghi (không cần các nhà giáo dục
nhắc) là “Lệ Chi, Phương Chi, Cẩm Thi, Hồng Phi” – vì tự nó là cân đối và đẹp
(cũng như việc người ta chỉ viết “ghi, bị, thi cử, phi công, đi” chứ không
thể “ghy, bỵ, thy cử, phy công, đy”!!). Đối với một số người, “năm Tý” mà ghi
thành “năm Tí” hoặc “công ty” thành công ti” thì nghe nó thô thô thế nào ý…
Hóa ra còn có quy tắc của thẩm mỹ, tâm lý và … thói quen nữa. Có
lẽ giống trong kinh tế học, cái này gọi là “bàn tay vô hình” - nó chưa cần
đến sự can thiệp hay điều tiết của các nhà giáo dục.
Tôi mạo muội nghĩ, triệt để ngữ âm hóa trong trường hợp này là
thừa (ở đây tình hình không nghiêm trọng như trường hợp “giếng-jiếng, phủ-fủ,
Dung-Zung…”). Nếu cách mạng hóa hoàn toàn chính tả Việt về mặt ngữ âm thì e
rằng sẽ loạn. Chỉ có thể cải biên hợp lý thôi.
3- Bài học Nguyễn Đình Chiểu
Cụ Nguyễn Đình Chiểu nổi tiếng về tư tưởng yêu nước thương dân và
“đâm mấy thằng gian bút chẳng tà”. Thế nhưng cụ lại rẻ rúng chữ Quốc ngữ hết
mức vì cho rằng nó hiện thân cho văn hóa phương Tây và sự xâm lấn của phương
Tây. Thế là cụ quay lưng hoàn toàn với hệ thống ký âm Latin rất khoa học này.
Nhưng lịch sử đã chứng minh việc giới trí thức Việt
Vì, rõ ràng kho thư tịch cổ Hán-Nôm của ta không thể nhiều như ở
Trung Quốc. Chữ Hán rốt cục cũng không phải ta nghĩ (còn chữ Nôm phát xuất từ
chữ Hán). Đã thế hai hệ chữ này lại vô cùng cồng kềnh, nhất là trong thời đại
công nghệ thông tin và internet hiện nay.
Một số học giả Việt
Tất nhiên khi lựa chọn chữ Latin, ta có vất vả một chút là phải
lập thêm viện Hán-Nôm để nghiên cứu tài liệu cổ của cha ông.
Chữ Latin ký âm là ghi lại những nét cơ bản nhất của ngôn ngữ tự
nhiên. Chữ Hán suy cho cùng cũng là chữ ký âm (nên mới ghi lại được lời bài
hát – khi đọc chỉ có một phương án), chỉ có điều đó là chữ ký âm cồng kềnh và
bất tiện nhất thế giới.
Bên Trung Quốc cũng từng có tranh cãi kịch liệt trong giới trí
thức về việc dùng chữ Hán hay Latin, nhưng rốt cục họ chọn dùng cái thứ nhất,
do (1) kho văn thư cổ của họ quá đồ sộ, (2) tiếng Hán các âm thường rất đa
nghĩa, (3) Trung Quốc thành phần dân tộc đa dạng, địa lý rộng, dị biệt ngữ âm
giữa các vùng quá lớn.
Tuy nhiên, dù đã lựa chọn Hán tự, ngày nay người Trung Quốc vẫn
phải dùng song song chữ Latin để hỗ trợ tra từ điển, hỗ trợ việc dạy tiếng mẹ
đẻ ở trường phổ thông, và hỗ trợ người nước ngoài học tiếng Hán. Khi gõ chữ
Hán trên máy tính vẫn phải dùng hệ thống Latin ngầm.
4- Hết gò tiếng lại gò câu
Việc nhọc công “uốn lưỡi cho chuẩn” làm tôi nhớ tới câu chuyện gò
câu tiếng Việt theo ngữ pháp Tây (Anh, Pháp…) Thầy Nguyễn Quốc Hùng (một thời
chuyên dạy tiếng Anh trên VTV, VOV) từng nói, chả hiểu sao học sinh Việt
nhiều khi hiểu quy tắc ngữ pháp tiếng Anh hơn cả tiếng mẹ đẻ.
Điều thầy Hùng thắc mắc là dễ hiểu. Thứ nhất, học
sinh ta sử dụng tiếng Việt như ngôn ngữ mẹ đẻ rồi nên thường không đi sâu tìm
hiểu các quy tắc tiếng Việt như người nước ngoài học tiếng Việt (ngược lại,
người Anh có khi lại không nắm rõ kiến thức ngôn ngữ học về tiếng của họ bằng
người Việt học tiếng Anh để đi thi chẳng hạn). Thứ hai, rất
nhiều các khái niệm của ngữ pháp phương Tây đã được vận dụng khiên cưỡng vào
tiếng Việt, vốn có đặc thù khác xa ngôn ngữ châu Âu.
Chẳng hạn sách tiếng Việt phổ thông sẽ
cố phân tách câu “Cái cây này quả rất sai” thành chủ ngữ (cái
cây) và vị ngữ cũng là một mệnh đề (quả rất sai).
Tình hình này cũng thấy trong sách nói về ngữ pháp tiếng Hán. Nhưng thực ra
ngữ pháp phương Tây không có vị ngữ kiểu như thế này. Trong khi đó, tiếng
Việt, Hán, và cả Nhật Bản có những kiểu câu riêng, không như phương Tây.
Sách giáo khoa phổ thông sẽ xếp những
câu sau vào nhóm mắc lỗi: “Ở đây nóng quá”, hay “Để làm được điều đó không dễ
chút nào”… (Theo họ, phải sửa thành “Chỗ này nóng quá, Không khí ở đây nóng
quá, Làm được điều đó không dễ chút nào”, v.v.). Tuy nhiên có những sự khác
biệt rất tinh tế giữa hai lớp câu tự
nhiên và chuẩn tắc này. Trên thực tế, vô số câu thuộc
lớp thứ nhất vẫn được sản sinh ra hàng ngày, bất chấp các khuôn mẫu.
Việc phân chia từ loại trong tiếng Việt cũng gây nhiều tranh cãi.
Đại để, ngữ pháp của các ngôn ngữ Đông Á thiên về “ngữ nghĩa” hơn
là “hình thức” như phương Tây. Có những nhà nghiên cứu ngôn ngữ còn đi xa tới
mức tuyên bố, tiếng Việt không có… ngữ pháp!
Ngữ pháp chuẩn tắc cũng có vai trò của nó, nhưng chỉ trong chừng
mực nhất định và thường thấy ở giới giáo dục (khi cần tìm một chuẩn nhất định
và để định hướng). Nếu lạm dụng khuôn mẫu đó vào cuộc sống thì sẽ dễ rơi vào
bế tắc.
Theo trường phái ngữ pháp miêu tả, các quy tắc ngôn ngữ phải đi
sau thực tiễn ngôn ngữ và phản ánh nó. Một cách dùng từ sai nếu diễn ra nhiều
và trên diện rộng thì nhiều khi lại được xem xét để công nhận và đưa vào từ
điển. Chẳng hạn, hiện nay phổ biến cách nói “vấn nạn” và “tồn tại” (với nghĩa
yếu kém, tiêu cực) nhưng nhiều người không thừa nhận. Ở đây, nếu ta cứng nhắc
thì e rằng sẽ cản trở sự mở rộng của từ vựng và ngữ nghĩa tiếng Việt. Thực tế
cũng chỉ ra, có những từ bị thu hẹp nghĩa hoặc thậm chí bị đào thải khỏi kho
từ của toàn dân. Tiếng Việt là sinh ngữ nên chuyện “kết nạp” và “khai trừ” đó
là rất đỗi bình thường.
Trong bản thân ngữ pháp tiếng Anh cũng có hai “phe” chuẩn tắc và
miêu tả. Người chuẩn tắc cực đoan khăng khăng rằng không thể chèn trạng từ
vào giữa “to infinitive”. Nhưng “lạy Chúa”, các văn bản, sách báo, thư từ của
người Anh cứ chèn thế nếu cần thiết, mặc kệ những người theo chủ nghĩa ngữ
pháp khuôn mẫu.
Một ví dụ nữa là câu chuyện trật tự trong tiếng Việt. Các biển
hiệu như “Lẩu dê quán” bị kết án là “mất nết”, phi chính thống. Nhưng nếu
bình tĩnh suy ngẫm thì ta có thể thấy hiện tượng đó không quá đáng ngại. Vì
tiếng Việt cũng có dùng trật tự phụ-chính (và kết hợp lẫn lộn yếu tố thuần
Việt và gốc Hán vào cùng một từ). Hơn nữa, suy cho cùng thì đây chỉ là cách
gây ấn tượng nhất thời, trong phạm vi hẹp (để quảng cáo...). Lớp váng ngôn
ngữ như thế này có tuổi thọ không cao và mấy tay chủ quán đó chắc không đủ
sức để áp đặt cách dùng này lên số đông.
Ngôn ngữ là tài sản của toàn dân. Anh có thích thì nhiều khi cũng
chỉ áp dụng các “sáng tạo” trong địa hạt cá nhân thôi. Dù thích từ thuần Việt
thì tôi cũng không thể nói “nhà báo gái” được, mà phải nói “nhà báo nữ” hoặc
“nữ nhà báo”. Nếu ai đó cố nói “nhà báo gái” thì đó chỉ là dị biệt, hoặc mang
tính lâm thời trong một hoàn cảnh nào đó (như để bông đùa chẳng hạn…). Quyền
quyết định thuộc về quần chúng và thời gian.
Việc sử dụng ngôn ngữ phù hợp văn cảnh
giống như mặc quần áo tùy hoàn cảnh. Bạn có thể dùng ngôn ngữ “xì-tin” hay @ trong các hoàn cảnh hẹp, để vui đùa
tếu táo, nhưng trong hoàn cảnh nghiêm túc và phát ngôn cho số đông hiểu thì
rất nên tránh. Sử dụng sai “phong cách ngôn ngữ” cũng giống như mặc com-lê đi
picnic và diện pyjama tới dạ hội.
Thực tiễn đã và đang xuất hiện hai xu hướng cực đoan đối lập.
Thái cực thứ nhất: Vì lo bảo vệ sự trong sáng của tiếng Việt mà đóng cửa
tiếng Việt, không chịu mô phỏng ngữ pháp Tây khi cần thiết (thể hiện ở hiện
tượng lên án gay gắt câu nói hoặc câu dịch nào đó là Tây quá). Thái cực thứ
hai: Áp dụng máy móc các khái niệm ngôn ngữ của phương Tây vào hoàn cảnh của
ngôn ngữ Việt.
Để phát triển tiếng Việt một cách thực chất và bền vững, chúng ta
phải đấu tranh chống lại cả khuynh hướng bế quan tỏa cảng lẫn “thả cửa dễ
dãi”. Một mặt phải chống bệnh tùy tiện, ngẫu hứng (rất dễ thấy trong văn hóa
tiểu nông), mặt khác phải chống bệnh chủ quan duy ý chí, khuynh hướng giáo
điều xơ cứng, xa rời hoàn cảnh Việt
Dù thế nào thì tiếng Việt chúng ta vẫn là sinh ngữ chứ không phải
tử ngữ. Đó là một ngôn ngữ đã được thử thách qua hàng ngàn năm dựng nước và
giữ nước của ông cha ta, đã đối diện với các sức ép tàn bạo nhất của các thế
lực ngoại bang./.
Trung Hiếu/VOV
online
|
Thứ Bảy, 15 tháng 2, 2014
Đăng ký:
Đăng Nhận xét (Atom)
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét