Tính ngụy biện trong lập luận của
Trung Quốc: Biển Đông do "tổ tiên" để lại
Cập nhật lúc 15:30
Tuyên bố của Chủ tịch Tập Cận Bình, lần này, cũng chỉ là một hình
thức thể hiện lập trường “chủ quyền lịch sử” mà chúng ta đã nhiều lần được
nghe.
Ngày 27/6/2018,
trước những chỉ trích của Bộ trưởng Quốc phòng Mỹ James Mattis về vấn đề
Trung Quốc quân sự hóa Biển Đông, leo thang căng thẳng và gây lo ngại trong
khu vực, Chủ tịch Tập Cận Bình tuyên bố:
“Lãnh thổ mà tổ tiên (Trung Quốc) để lại, một tấc cũng không
được đánh mất. Thứ gì của người khác thì một phân chúng tôi cũng không
cần".
Bài viết "Tổ tiên" nào để lại Biển Đông cho ông Tập Cận Bình? đăng trên Báo Điện tử Giáo dục Việt
Nam ngày 2/7/2018 đã cung cấp cho bạn đọc những thông tin và nhận xét khá thú
vị có liên quan đến tuyên bố nói trên của Chủ tịch Tập Cận Bình.
Tuy nhiên, để
làm rõ tuyên bố của ông Tập Cận Bình trong bối cảnh này có hợp lý và có căn
cứ hay không, theo chúng tôi, thiết nghĩ không đơn giản chỉ là tìm câu trả
lời cho câu hỏi mà ông Ilshat Hassan, nhà bình luận người Duy Ngô Nhĩ, đã đặt
ra rằng:
Vậy tổ tiên của ông Tập Cận Bình là ai?
Theo ông Ilshat
Hassan, nếu xem các vương triều Trung Nguyên của người Hán là "Tổ
tiên" và ông Tập Cận Bình là người thừa kế, thì triều đại cuối cùng là
nhà Minh, trên đất liền lấy Vạn Lý Trường Thành làm biên giới, các vùng duyên
hải lấy bờ biển làm biên giới.
Nếu chỉ như thế
thôi thì cũng có thể nói rằng chẳng những Biển Đông không phải do “Tổ tiên”
(nhà Minh) truyền lại, mà ngay cả Tân Cương, Tây Tạng, Nam Mông Cổ, Mãn Châu
và Đài Loan cũng không phải là “di sản thừa kế” mà ông Tập Cận Bình được thừa
hưởng.
Chúng tôi cũng
có thể chia sẻ ý kiến nhận xét này nếu chỉ nhìn nhận dưới góc độ lịch sử.
Tuy nhiên, dưới
góc độ pháp lý có liên quan đến quyền thụ đắc lãnh thổ quốc gia, chúng tôi
cho rằng nhận xét trên là chưa đủ sức thuyết phục.
Thậm chí có thể
gây nên sự nhầm lẫn nghiêm trọng về kiến thức pháp lý và hành vi ứng xử trong
công cuộc đấu tranh bảo vệ chủ quyền hợp pháp đối với một số bộ phận lãnh thổ
đang trong tình trạng tranh chấp.
Để góp phần làm
sáng tỏ nội dung phát biểu của Chủ tịch Tập Cận Bình đang được dư luận hết
sức quan tâm, chúng tôi xin được nhắc lại quá trình hình thành các nguyên tắc
và thực tiễn quốc tế về thụ đắc lãnh thổ.
Vấn đề này đã
được chúng tôi phân tích nhiều lần, ví dụ như trong bài:
Quý bạn đọc
quan tâm tới vấn đề thụ đắc lãnh thổ có thể theo dõi qua các bài viết này,
xin không nhắc lại ở đây kẻo làm mất thời giờ của quý vị.
Tuy nhiên,
những định chế mang tầm vóc quốc tế về thụ đắc lãnh thổ như chúng tôi đề cập
trong các bài viết nói trên cũng không thể ngăn cản được tình trạng sử dụng
vũ lực hoặc đe dọa dùng vũ lực để tiếp tục tranh giành thị trường;
Không ngăn được
việc một số siêu cường thực hiện tham vọng bá quyền, tranh chấp lãnh thổ,
nhất là đối với các hải đảo, lãnh thổ biển…, các khu vực địa lý có giá trị về
địa-kinh tế, địa- chính trị, địa- chiến lược.
Đỉnh điểm của
những tranh chấp khốc liệt giữa các nước lớn là Chiến tranh Thế giới lần thứ
I, lần thứ II, xảy ra vào những năm đầu của thế kỷ XX, đã cướp đi hàng chục
triệu sinh mạng và tàn phá biết bao làng mạc, phố phường, của cải vật chất
của nhân loại…
Chiến tranh
cũng hủy hoại sự toàn vẹn lãnh thổ và chủ quyền quốc gia của nhiều nước trên
thế giới bị xâm phạm nghiêm trọng.
Tiếp đến là
tình trạng chạy đua vũ trang của thời kỳ Chiến tranh Lạnh, đến nạn khủng bố,
tranh chấp sắc tộc, tôn giáo, biên giới, lãnh thổ không ngừng xảy ra ở hầu
khắp hành tinh này…
Để ngăn chặn
những hiểm họa chiến tranh do những tham vọng bá chủ thiên hạ, xâm chiếm lãnh
thổ của quốc gia có chủ quyền bằng cách đe dọa hoặc sử dụng vũ lực, Hiến
chương Liên Hợp Quốc đã được ký ngày 26/6/1945 ở thành phố San Francisco và
có hiệu lực từ ngày 24/10/1945.
Với sự ra đời
của Hiến chương Liên Hợp Quốc có thể nói đã trở thành nguyên tắc pháp lý quốc
tế cao nhất để bảo vệ sự tồn tại của các quốc gia, với tư cách là các thực
thể trong quan hệ quốc tế thời hiện đại.
Về nguyên tắc,
nó là vũ khí được sử dụng để vô hiệu hóa các phương thức thụ đắc lãnh thổ
bằng sức mạnh đã tồn tại trong các thời kỳ lịch sử trước đây.
Đấy chính là lý
do lý giải cho câu hỏi tại sao mãi đến đầu thế kỷ 20, quốc tế vẫn còn thừa
nhận việc dùng vũ lực để xâm chiếm một bộ phận hay toàn bộ lãnh thổ của một
quốc gia là hành động hợp pháp.
Và đấy cũng
chính là nội dung trả lời câu hỏi vì sao trong Hiến chương Liên Hợp Quốc lại
có điều khoản:
“Tất cả các nước thành viên Liên Hợp Quốc không được dùng vũ lực
hoặc đe dọa dùng vũ lực trong quan hệ quốc tế nhằm chống lại sự bất khả xâm
phạm về lãnh thổ hay nền độc lập chính trị của bất kỳ quốc gia nào”.
Từ những thông tin nói trên, chúng tôi
hy vọng có thể đã cung cấp cho bạn đọc quan tâm có căn cứ để nhận diện bản
chất của những tuyên bố có vẻ rất “sòng phẳng, có tình, có lý” của Chủ tịch Tập Cận Bình, rằng:
"Lãnh thổ mà tổ tiên để lại, một tấc cũng không được đánh
mất. Thứ gì của người khác thì một phân chúng tôi cũng không cần".
Theo chúng tôi, tuyên bố của Chủ tịch
Tập Cận Bình, lần này, cũng chỉ là một hình thức thể hiện lập trường “chủ quyền lịch sử” mà chúng ta đã nhiều lần được nghe.
Dựa vào lập trường này, Trung Quốc đã
và đang tìm mọi cách, viện dẫn nhiều sách, tài liệu địa lý, lịch sử để chứng
minh và bảo vệ cho quan điểm pháp lý về quá trình xác lập và thực thi cái gọi
là “chủ quyền lịch sử” của Trung Quốc yêu sách đối với 2
quần đảo Hoàng Sa, Trường Sa của Việt Nam, mà họ gọi là “Tây Sa” và “Nam Sa”.
Nhưng theo quan
điểm của ông Lý Lệnh Hoa, một chuyên gia nổi tiếng về Công pháp quốc tế người
Trung Quốc, thì:
“…Chứng cứ (lịch sử) đó có ý nghĩa ngày càng nhỏ trong luật quốc
tế hiện đại…, chứng cứ thật sự có sức thuyết phục chính là sự kiểm soát thực
sự.
Anh nói chỗ đó của anh, vậy anh đã từng quản lý nó chưa, người ở
đó có phục tùng sự quản lý của anh không, có phải người khác không có ý kiến
gì không?
Nếu đáp án của những câu hỏi này đều là “có” thì anh thắng là
điều chắc. Ở Nam Sa, chúng ta không có được điều đó…”
Bà Monique
Chemillier Gendreau, giáo sư công pháp và khoa học chính trị ở Trường Đại học
Paris VII Denis Diderot, nguyên Chủ tịch Hội luật gia dân chủ Pháp, nguyên
Chủ tịch Hội luật gia châu Âu kết luận:
“Người Trung Quốc cách đây khá lâu đã biết ở Biển Đông có nhiều
đảo mọc rải rác, nhưng điều đó không đủ làm cơ sở pháp lý để bảo vệ cho lập
luận rằng, Trung Quốc là nước đầu tiên phát hiện, khám phá, khai thác và quản
lý hai quần đảo này…”
Vì vậy, thực
chất tuyên bố của Chủ tịch Tập Cận Bình có thể nói đó chỉ là những lời lẽ
ngụy biện;
Ông đang sử
dụng những căn cứ lịch sử không có giá trị pháp lý để biện minh cho các hành
động xâm chiếm lãnh thổ của nước khác, biến các lãnh thổ đó trở thành các căn
cứ quân sự, phục vụ cho chiến lược độc chiếm Biển Đông;
Trung Quốc tham
vọng dùng Biển Đông làm bàn đạp để vươn lên vị trí siêu cường trong cuộc cạnh
tranh địa- chính trị, địa- chiến lược, đia- kinh tế đang diễn ra trên phạm vi
khu vực và quốc tế.
Từ những phân
tích nói trên, chúng tôi xin được một lần nữa nhắc lại các quần đảo Hoàng Sa
và Trường Sa trong Biển Đông hoàn toàn thuộc chủ quyền của Nhà nước Việt Nam
theo đúng nguyên tắc thụ đắc lãnh thổ hiện hành mà luật pháp và thực tiễn
quốc tế đã quy định rất rõ ràng.
Đó là nguyên
tắc “chiếm hữu thật sự”.
Các bằng chứng
chứng minh cho điều này chúng tôi cũng đã trình bày nhiều lần, nay xin dẫn
lại ở đây để quý bạn đọc nào quan tâm thì tiện tham khảo:
Những băn khoăn, thắc mắc về vấn đề chủ quyền quần đảo Trường Sa, đăng trên Báo
Điện tử Giáo dục Việt Nam ngày 3/8/2016.
(Theo GDVN) Tiến sĩ Trần Công Trục
|
Thứ Tư, 4 tháng 7, 2018
Đăng ký:
Đăng Nhận xét (Atom)
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét