Thứ Ba, 3 tháng 9, 2013

09:45
 Tổ quốc nhìn từ xa
LTS: Nhà thơ Nguyễn Duy có bài Nhìn từ xa… Tổ quốc: “Dù ở đâu vẫn Tổ quốc trong lòng, cột biên giới đóng từ thương đến nhớ”. Một nhà sử học cũng bảo: Cứ đi ra biển xa mà ngắm về dải đất liền của Tổ quốc, mới thấy cái rưng rưng xúc động của việc nhìn ngắm Tổ quốc từ xa, và nghiệm về dân tộc, về đất nước hình chiếc liềm trong thế giữ Biển Đông. Mừng ngày Độc lập, trên Sài Gòn Tiếp Thị số đặc biệt này, có những người Việt xa xứ chia sẻ những cảm xúc, những tâm sự của mình cho niềm mong mỏi thế nước mạnh hơn, dân ta ấm no hơn và tộc Việt mãi trường tồn. Đó là các học giả Cao Huy Thuần (Pháp), Vũ Minh Khương (Singapore), Lê Văn Cường (Pháp), Nguyễn Văn Tuấn (Úc), Nguyễn Phương Mai (Hà Lan).

Từ nền độc lập nghĩ về văn hoá hoà bình

SGTT.VN - Từ Pháp, giáo sư Cao Huy Thuần chia sẻ những hoài niệm của chính ông, một nhân chứng lịch sử của thời khắc tháng 8. 1945. Ông có những trăn trở chân thành của mình đối với sự phát triển đất nước trong giai đoạn hiện nay.


“Máu ấy đỏ chung trên lá cờ của chúng ta, phấp phới như một mảnh hồn chung”. Ảnh: Trần Việt Đức

Thưa Giáo sư, cảm xúc của Giáo sư là thế nào khi nghĩ về ngày độc lập 2.9 của đất nước?
Tôi nghĩ đến bao nhiêu xương máu đã đổ ra để giành lại độc lập và bảo vệ độc lập. Bài quốc ca của chúng ta có câu: "Đường vinh quang xây xác quân thù". Đúng vậy. Nhưng đường vinh quang cũng xây xác bao nhiêu chiến sĩ, bao nhiêu thường dân, bao nhiêu máu của cả dân tộc, không phân biệt. Máu ấy đỏ chung trên lá cờ của chúng ta, phất phới như một mảnh hồn chung, nhắc nhở chúng ta đừng quên: độc lập ấy là máu của cả dân tộc từ Bắc chí Nam, vinh quang ấy là vinh quang của cả dân tộc từ Nam chí Bắc.
Ngày độc lập có gắn với kỷ niệm nào của Giáo sư không?
Tôi thuộc thế hệ những người được sống với nền độc lập 1945. Năm ấy, tôi 8 tuổi, kỷ niệm đầy ắp. Là nhi đồng Cứu quốc trong đội văn hóa của huyện Bình Sơn, tỉnh Quảng Ngãi, tôi đi hát lưu diễn từ huyện này qua huyện khác, có khi cả tuần không về nhà, ghẻ lở khắp lưng vì không tắm rửa, vì ngủ sau sân khấu, vì ăn toàn mắm với cơm độn khoai.
Thay mặt thiếu nhi, tôi được vinh dự nhảy lên bục, hô hào toàn quốc kháng chiến, "thưa đồng bào, quân Pháp đã đổ bộ lên Tân Gia Ba", chẳng biết Tân Gia Ba là cái gì, ở đâu. Quảng Ngãi là đất màu mỡ của cách mạng, nhiều anh học trò của cha tôi xung phong vào Nam ngay từ khi mở mặt trận và chết ngay trong những trận đầu tiên, tuổi chưa tròn mười tám. Tôi đã chảy nước mắt với chiếc khăn tang quấn trên đầu chị vợ chưa cưới của một anh trong số đó. Chị đẹp làm tôi não nùng. Hình ảnh đầu tiên về chiến tranh trong ký ức của tôi là như vậy: chị đẹp, anh trẻ, và chiếc khăn tang.
Chiến tranh là bạo lực, hòa bình là pháp luật. Chiến tranh là sa trường, hòa bình là nghị trường. Chiến tranh là lạnh lùng của bộ máy, hòa bình là nồng ấm của hơi thở con người...
Lãng mạn chăng? Đúng vậy. Nhưng tôi đang nói đến bối cảnh đặc biệt của 1945 và không khí tiểu tư sản trí thức chung quanh tôi. Kháng chiến thuở đầu nhuốm đầy phong vị lãng mạn vừa trí thức vừa anh hùng. Xung phong vào Nam, các anh coi cái chết nhẹ tựa lông hồng. "Một lần đi là không trở về", thiếu nhi chúng tôi cũng hát như các anh, tất cả đều là Kinh Kha qua sông Dịch. Từ giã người yêu, chẳng ai nồng cháy một cái hôn, chỉ lạnh lùng để khỏi vương vấn: "lạnh lùng vung gươm ra sa trường". Sự thực, tôi chẳng thấy ai đeo gươm, chỉ đôi khi thầm phục trái lựu đạn cài bên hông. Mà lựu đạn ấy cũng biết lãng mạn: có trái không nổ. Tôi nghe nói có nhiều anh chết khi xung phong chỉ vì lựu đạn không nổ. Nhưng sá gì! Các anh chết với nụ cười và bài hát trên môi: "Quyết chiến sa trường. Sống thác coi thường. Mong xác trong da ngựa bọc thân thể trai..."
Kháng chiến khởi đầu không thể hào hùng đến thế nếu thiếu đi cái chất lãng mạn anh hùng ấy trong dòng máu thanh niên trí thức, nếu thiếu đi những bài thơ trữ tình yêu người yêu nước trong balô của anh bộ đội. Ít nhất là trong vòng các anh thanh niên mà tôi biết lúc đó, có hai dòng máu lãng mạn chảy trong huyết quản: một dòng bắt nguồn từ tiểu thuyết của Tự Lực Văn Đoàn, một dòng bắt nguồn từ câu thơ trong Chinh phụ ngâm: "Chàng tuổi trẻ vốn dòng hào kiệt / Xếp bút nghiên theo việc đao cung". Tại sao tôi dám nói thế? Tại vì, từ huyện này qua huyện khác, tôi đã nghêu ngao một câu hát ấy mà về sau tôi không còn nghe ai hát nữa ngoài anh Trần Văn Khê: "Xếp bút nghiên lên đường tranh đấu/ Xếp bút nghiên coi thường công danh như phù vân/ Sơn hà nguy biến, tiến ta tiến!/ Hèn thay đời nhàn cự, hèn thay vui yêu đương/ Lúc quê hương cần người, dứt đường tơ vương, giã nhà lên yên..."
Không Chinh phụ ngâm thì là gì? Tất cả là thơ. Kháng chiến là thơ. Mà làm gì anh bộ đội có những bài thơ hay thế trong ba lô nếu không có Tự Lực Văn Đoàn khai hoa nở nhụy cho thơ mới? Tất cả thanh niên trí thức chung quanh tôi thời ấy đều mang Nhất Linh, Khái Hưng, Xuân Diệu trong hơi thở. Tất cả đều là tình nhân của cô Loan, cô Thoa.
Tôi muốn nói thêm: cái chất lãng mạn anh hùng của thời 45 ấy truyền thừa cho đến các anh chị sinh viên miền Nam chúng tôi thời 63 và sau đó. Giọt máu - và bây giờ giọt nước mắt - mà các anh chị thấm vào trang sử thời ấy, các anh chị thử ngửi xem, có phải nó thơm mùi thơ, mùi văn, hương đồng gió nội rất lãng mạn? Nếu không phải thì tại sao các anh thích hát Trăng mờ bên suối ở những dịp nghiêm trang? Tất cả các anh thanh niên trí thức thời 45, tất cả, hoặc gần như thế, các anh chị sinh viên thời Huế-Sài Gòn năm xửa năm xưa, tất cả đều là thi sĩ dù có làm thơ hay không, bởi vì tất cả đều mang chất thơ của văn hóa Việt Nam trong máu. Đừng quên rằng cái lãng mạn của Tự Lực Văn Đoàn cũng là cái lãng mạn phản kháng. Phản kháng một tư tưởng cổ hủ xiềng xích tự do của con người. Chất thơ văn trong máu các anh chị buộc các anh chị phải phản kháng, từ 45 cũng như từ 63. Trước bạo lực, cường quyền, bất công, các anh chị không khuất phục. Như thế hệ trí thức 45 đã không khuất phục. Ngày 2.9 năm nay, tôi hướng về cái chí khí thanh niên đó.
Theo Giáo sư, vì sao một dân tộc từng ngẩng cao đầu trong những cuộc đấu tranh chống ngoại xâm để giữ nước, nhưng lại là một dân tộc quẩn quanh với mệt nhoài ở những chặng hòa bình tìm kế bứt phá vươn lên?
Chiến tranh có quy luật của chiến tranh. Hòa bình có quy luật của hòa bình. Trở về lại với bài quốc ca, năm 1945 chúng tôi hát: "Thề phanh thây uống máu quân thù" mà chẳng thấy gì ghê rợn. Bây giờ chúng ta hát: "Đường vinh quang..." Thế là "văn hóa" của chiến tranh đã khác với văn hóa của hòa bình rồi! "Mỗi ngày anh du kích giết được 3 thằng Tây, vậy 10 ngày anh giết được bao nhiêu thằng?", ấy là bài toán đố lớp tiểu học hồi 1950.
Bây giờ không ai ra toán kiểu đó nữa. Tuy vậy, chiến tranh vẫn chưa ra khỏi cái đầu và thực tế chính trị. Như một quán tính, chiến tranh vẫn đè nặng trên tư duy. Ta và địch vẫn mãi đánh nhau trong đầu óc, với căm thù, thủ đoạn và bạo lực, ngăn cản mọi suy nghĩ về sự cần thiết tất nhiên của cạnh tranh chung sống trong hòa bình. Có cần phải nhắc lại rằng chiến tranh không có văn hóa? Không ai nói "văn hóa chiến tranh". Chỉ có văn hóa hòa bình.
Đừng áp dụng quy luật của thời chiến vào giai đoạn của thời bình. Một bên là nước mặn, một bên là nước ngọt. Chiến tranh là chỉ huy, hòa bình là nghe ý kiến. Chiến tranh là mệnh lệnh, hòa bình là biện luận. Chiến tranh là đại bác, hòa bình là cây bút. Chiến tranh là sắt thép, hòa bình là tơ lụa. Chiến tranh là thù địch, hòa bình là đối thủ. Chiến tranh là cưỡng bức, hòa bình là thuyết phục. Chiến tranh là lý lịch, hòa bình là vua Trần xí xóa. Chiến tranh là bạo lực, hòa bình là pháp luật. Chiến tranh là sa trường, hòa bình là nghị trường. Chiến tranh là lạnh lùng của bộ máy, hòa bình là nồng ấm của hơi thở con người. Chiến tranh là nhất cực, hòa bình là đối trọng. Chiến tranh là con ó quắp mũi tên nơi móng, hòa bình là con bồ câu lông trắng, chân son, và mắt ôi là bồ câu.
Hòa bình mà cứ dùng khí giới của chiến tranh để đối thoại thì "văn hóa" ấy không phải là động lực của phát triển. Đó là cản trở phát triển. Cản trở về mọi mặt, mọi lĩnh vực.
Thách thức lớn nhất đối với việc phát triển đất nước hiện nay là gì, thưa Giáo sư?
Là chưa có tư duy hòa bình như tôi vừa nói.
Theo Giáo sư, trong giai đoạn hiện nay, cách thức nào hạn chế những thách thức đó để đưa dân tộc đi lên?
Chỉ có một phương thức duy nhất thôi là dân chủ. Ở đâu cũng vậy và ở thời nào cũng vậy, quyền lực lâu ngày của một chế độ sẽ hao mòn tính sắc bén với thời gian, người Pháp nói rõ hơn: le pouvoir s'use, ta có thể dịch là quyền lực bị lão hóa. Ngày xưa, khi mới đánh đuổi ngoại xâm và lên ngôi, ông vua thường là minh quân. Một đời, hai đời, vài đời, tính sắc sảo ban sơ dùi mòn đi, cuối cùng là hôn quân hắc ám. Giới tinh hoa quan chức không có động lực gì thúc đẩy để thay đổi, chỉ ham địa vị, cũng từ từ rữa nát theo ông. Tất cả chế độ chỉ dựa trên ông vua và hầu cận tả hữu mà vua thì hôn quân, quan thì nịnh thần, tất loạn, không Hồ Quý Ly thì Mạc Đăng Dung phải soán ngôi để thiết lập trật tự mới. Chế độ quân chủ ngày xưa không tìm ra được một nguyên tắc để ngăn cản tính lão hóa tất yếu của quyền lực, để quyền lực chuyển mình thay đổi trong hòa bình. Ngày nay, chính thể dân chủ có nguyên tắc, có kinh nghiệm để mài giũa lại quyền lực cho sắc bén, hữu hiệu, để quyền lực tự củng cố, tự sửa đổi. Ông Khổng Tử ngày xưa bảo thủ như vậy mà cũng nói: Học cũng như chèo thuyền nước ngược, không tiến tất thoái. Cai trị cũng vậy.
Nhân ngày độc lập, tôi cũng xin nói thêm, hay nói cho đúng, cũng xin hát thêm - hát những bài hát mà chúng tôi đã hát hồi 1945. Bài Bao chiến sĩ anh hùng tận cùng như thế này: "Thề phục quốc, tiến lên Việt Nam!/ Lập quyền dân, tiến lên Việt Nam!/ Đài hạnh phúc đắp xây tự do!/ Việt Nam tranh đấu chống quân ngoại xâm".
Triệu người Việt Nam như một đều đang nói: chúng ta đang gặp ngoại xâm. Triệu người Việt Nam như một đều đang thề: thề phục quốc. Triệu người Việt Nam như một đều đang hô to: lập quyền dân. Triệu người Việt Nam như một đều đang ước mơ tự do, hạnh phúc. Chúng ta đang sống năm 2013 hay năm 1945? 
Triết lý phát triển nào cho Việt Nam phù hợp với bối cảnh hiện nay, thưa GS?
Tôi xin mượn một chuyện khoa học để trả lời câu hỏi của anh. Hồi thế kỷ 18, nhiều nhà hóa học, nhất là Stahl, nghĩ rằng nếu cái bàn, cái ghế, bất cứ cái gì cũng có thể cháy được thì như vậy hẳn phải có một tố chất gì đó chung cho tất cả những vật thể có thể cháy ấy. Tìm tòi mãi mà không chiết ra được cái tố chất chung ấy, họ gọi cái chất hãy còn vô hình đó là phlogistique. Như thế cho đến Lavoisier. Lavoisier đảo ngược cách suy nghĩ. Chắc gì cái tố chất chung ấy nằm ở trong bản thề cáí bàn, cái ghế, mọi vật có thể cháy? Biết đâu nó nằm ở bên ngoài? Đảo ngược cách suy nghĩ như vậy, Lavoisier khám phá ra cái mà bây giờ trẻ con cũng biết: cái ấy là ôxy. Có ôxy thì cháy. Ôxy ở bên ngoài.
May mắn cho Lavoisier là rốt cục các nhà hóa học không còn kết án ông là diễn biến... khoa học. Không làm một cuộc đổi mới tư duy thì xin anh đừng nói phát triển.
Giáo sư có tin rằng mỗi dân tộc có một số mệnh riêng?
Tôi là Phật tử nên không tin ở số mệnh. Đạo Phật dạy tôi: tất cả đều do hành động của ta. Hành động tốt thì kết quả tốt, hành động xấu thì kết quả xấu. Các câu hỏi của anh là hành động. Trả lời của tôi là hành động. Nó nhỏ như hạt mưa. Nhưng triệu triệu hạt mưa thì chấm dứt hạn hán.
(SGTT) LÊ NGỌC SƠN (THỰC HIỆN).

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét