10:31
Hết thời dàn hàng ngang làm cảng biển?
SGTT.VN - Giảm
sâu các chỉ tiêu về khả năng thông qua các cảng, trên cơ sở đó, đây cũng là
lúc tập trung đầu tư có trọng điểm, nâng cấp cảng đầu mối hiện có thay vì đầu
tư theo kiểu dàn hàng ngang, dẫn đến tình trạng thiếu hàng thừa cảng thời
gian qua.
Đó là những thay đổi “chiến lược” trong điều chỉnh quy hoạch phát
triển cảng biển Việt Nam (giai đoạn 2020, tầm nhìn 2030) đang được bộ Giao
thông vận tải dự thảo, lấy ý kiến các bộ ngành trước khi trình Thủ tướng
Chính phủ.
“Hạ tải”
Theo số liệu từ cục Hàng hải Việt Nam, cả nước hiện có 219 bến
cảng (với 373 cầu cảng, tổng chiều dài khoảng 43.600m) có năng lực thông qua
hơn 430 triệu tấn/năm. Tuy nhiên, lượng hàng qua cảng năm 2012 đạt 294,7
triệu tấn, dù gấp 2,15 lần năm 2005 nhưng cũng chỉ bằng khoảng 60% lượng hàng
qua cảng dự kiến cho năm 2015 (tại quy hoạch được duyệt năm 2009).
Đơn vị được cục Hàng hải giao nhiệm vụ lập đề án điều chỉnh quy
hoạch cảng biển Việt Nam, là công ty cổ phần Tư vấn thiết kế cảng – kỹ thuật
biển (Portcoast) cho rằng, bối cảnh kinh tế trong nước và thế giới đã có
nhiều thay đổi so với thời điểm nghiên cứu lập quy hoạch. Các khó khăn chung
của kinh tế toàn cầu ảnh hưởng tiêu cực tới hoạt động đầu tư và thương mại.
Các chỉ tiêu phát triển kinh tế trong nước đã, đang được điều chỉnh lại. Bên
cạnh đó, quy hoạch phát triển các ngành kinh tế, địa phương có liên quan
nhiều tới cảng biển đã, đang được điều chỉnh; nhiều dự án công nghiệp tập
trung về luyện kim, lọc hoá dầu, nhiệt điện... có lượng hàng chuyên dùng qua
cảng lớn bị dãn tiến độ hoặc huỷ bỏ. Do vậy, việc rà soát, điều chỉnh lại quy
mô phát triển theo giai đoạn (đặc biệt là các dự án ưu tiên trong giai đoạn
trước mắt) nhằm nâng cao tính khả thi và hiệu quả của quy hoạch phát triển
cảng biển là rất cần thiết.
Theo đó, tổng lượng hàng qua các cảng biển được Portcoast dự báo
khiêm tốn, chỉ đạt khoảng 395,4 – 408 triệu tấn vào năm 2015; 634,42 – 677
triệu tấn vào năm 2020 và từ 1.041 – 1.162 triệu tấn vào năm 2030. Trong khi
đó, quy hoạch lần trước (2009) thì các chỉ tiêu này lần lượt là: 498,5 – 590
(2015), 634 – 677 (2020) và 1.041-1.162 (2030). Điều này cho thấy đã có sự
“hạ tải” khá sâu trong chỉ tiêu hàng hoá thông qua cảng. Cụ thể, trong đó
giai đoạn 2015 giảm khoảng 100 triệu tấn; giai đoạn 2020 giảm khoảng 240
triệu tấn và giai đoạn 2030 giảm khoảng 540 triệu tấn/năm.
Trên cơ sở phân tích đó, dự thảo tờ trình cho rằng cần tập trung
xây dựng một số cảng nước sâu cho tàu trọng tải lớn đạt tiêu chuẩn quốc tế;
đặc biệt là cảng cửa ngõ quốc tế Hải Phòng, Bà Rịa – Vũng Tàu tiếp nhận được
tàu trọng tải trên 100.000 DWT, tàu container sức chở 9.000 TEU hoặc lớn hơn,
đủ năng lực để có thể kết hợp đảm nhận vai trò trung chuyển container quốc
tế; các cảng chuyên dùng quy mô lớn cho các liên hợp luyện kim, lọc hoá dầu,
trung tâm nhiệt điện chạy than tiếp nhận được tàu trọng tải 100.000 – 300.000
DWT hoặc lớn hơn. Bên cạnh đó là cần chú trọng cải tạo, nâng cấp các cảng đầu
mối hiện có; xây dựng có trọng điểm một số cảng địa phương theo chức năng,
quy mô phù hợp với yêu cầu phát triển kinh tế – xã hội và khả năng huy động
vốn.
Hạn chế cảng “treo”, hoạt động cầm chừng
Cùng với đó, tờ trình cũng đã chỉ ra những yếu kém trong việc đầu
tư phát triển hệ thống cảng biển những năm qua. Trước tiên, là sự không đồng
bộ về quy mô, đặc biệt là tiến trình đầu tư xây dựng giữa cơ sở hạ tầng bến
cảng và hệ thống hạ tầng giao thông kết nối đến cảng (bao gồm cả luồng vào
cảng và đầu mối logistics...) làm hạn chế lớn tới năng lực hoạt động và hiệu
quả đầu tư cảng biển. “Đây cũng là một trong những nguyên nhân chính dẫn đến
tình trạng thiếu hàng thừa cảng tại khu vực Cái Mép – Thị Vải, cảng “treo”
tại Hiệp Phước, Phú Hữu – TP. HCM, hoạt động cầm chừng tại các cảng/khu bến ở
đồng bằng sông Cửu Long, chưa phát huy được năng lực cầu bến tại Đình Vũ –
Hải Phòng”, tờ trình dẫn chứng.
Đáng chú ý, dù là cơ quan quản lý ngành cao nhất, song bộ Giao
thông vận tải nhìn nhận “chưa có một cơ quan quản lý đủ mạnh chịu trách nhiệm
điều phối chung trong quá trình phát triển và hoạt động tại cảng biển”, và
“việc nghiên cứu để áp dụng (trước hết là thí điểm) một mô hình quản lý phù
hợp thông lệ quốc tế và điều kiện Việt Nam chưa đáp ứng yêu cầu thực tế đòi
hỏi”.
(Theo SGTT) Chí
Hiếu
|
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét