Thứ Năm, 27 tháng 9, 2012


10:21
 Sở hữu chéo và sự lũng đoạn thị trường


(Thời báo Kinh Doanh) - Sở hữu chéo là vấn đề khá bình thường trên thế giới, nhưng luật của các nước đều yêu cầu minh bạch để thị trường và cổ đông giám sát. Ở Việt Nam cũng đã có những quy định hạn chế sở hữu chéo và yêu cầu công khai việc này, nhưng lại bỏ ngỏ khâu giám sát và chế tài, dẫn đến việc sở hữu chéo ngày càng trở nên nghiêm trọng, làm lũng đoạn thị trường nhiều lĩnh vực trọng yếu của nền kinh tế, nhất là lĩnh vực tài chính - ngân hàng.

 Trong báo cáo kinh tế vĩ mô năm 2012 do Ủy ban Kinh tế của Quốc hội vừa công bố, vấn đề sở hữu chồng chéo trong hệ thống ngân hàng hiện nay đã được đề cập, trong đó nổi bật là việc sở hữu NHTM cổ phần (TMCP) bởi các tập đoàn, tổng công ty (TCT) nhà nước và tư nhân.
Bản sao của "mô hình đa cấp"?
Hiện tại có khoảng gần 40 doanh nghiệp nhà nước (DNNN) và tư nhân có sở hữu trên 5% tại các ngân hàng TMCP. Hầu hết tập đoàn kinh tế nhà nước đều có các công ty tài chính. Mối quan hệ giữa ngân hàng TMCP với các tập đoàn tư nhân ngày càng trở nên phức tạp. Nhiều ngân hàng có thể được sở hữu bởi rất nhiều công ty gia đình hoặc các thành viên gia đình vốn đồng thời lãnh đạo ở các DN khác.
Có ý kiến cho rằng vấn đề sở hữu chồng chéo đã tồn tại rất lâu trong hệ thống ngân hàng Việt Nam và hệ lụy của nó là gây nên tình trạng cạnh tranh không lành mạnh giữa các ngân hàng. Nó cũng là một trong những nguyên nhân của việc cho vay theo quan hệ, bất chấp hiệu quả sử dụng vốn vay. Các NHTM đôi khi trở thành "sân sau" của các DN chuyên huy động vốn trong dân để phục vụ các dự án (DA) của mình. Khi cho vay lại thiếu cẩn trọng trong thẩm định DA, làm tăng nợ xấu, gây bất ổn cho thị trường tài chính. Đây cũng chính là kẽ hở của pháp luật về quan hệ sở hữu tại các tổ chức tài chính tín dụng. Kẽ hở này cần nhanh chóng được lấp đầy để tránh tình trạng "thâu tóm các ngân hàng trái pháp luật" của một số cá nhân, tổ chức.
Theo chuyên gia ngân hàng Lê Xuân Nghĩa, để chống được tình trạng sở hữu chéo trong lĩnh vực ngân hàng, tiền đầu tư vào ngân hàng phải được giám sát là đồng tiền "sạch". Cá nhân hay tổ chức muốn đầu tư vào ngân hàng phải lý giải, chứng minh lấy nguồn tiền ở đâu ra. Các nước trên thế giới quy định rất chặt chẽ những vấn đề này. Việt Nam có quy định nhưng không có nghị định hướng dẫn. Chính phủ đã thể hiện sự quyết tâm "uốn nắn" vấn đề này. Theo đó, nếu phát hiện sẽ buộc các chủ ngân hàng phải dần thoái vốn, nếu có gian lận sẽ tịch thu xung công quỹ và mức nghiêm trọng có thể xử lý hình sự.
Còn Ts. Lê Đạt Chí - Trường Đại học Kinh tế Tp.HCM, cho rằng bản chất sở hữu chéo chẳng khác gì kinh doanh đa cấp, dùng vốn vay để sở hữu. Ông A chỉ cần góp 50% vốn nắm tỷ lệ chi phối công ty A là có thể dùng 50% tài sản công ty A thực hiện cho các mục tiêu đầu tư chi phối công ty B, rồi dùng 50% tài sản công ty B đầu tư và chi phối tiếp công ty C… Một số tiền nhỏ đi qua nhiều lần đã tạo cấp số nhân giúp tỷ lệ nắm giữ và quyền chi phối ngày càng phình to. Dù loại hình DN này là hoạt động kinh doanh có điều kiện, nhưng thực tế chưa bị điều chỉnh ở Luật Chứng khoán, Luật Các tổ chức tín dụng...
Cần tạo "bức tường lửa"!
Chính "lỗ hổng" trong giám sát việc chưa minh bạch về sở hữu chéo cũng như công bố thông tin khiến dư luận và cổ đông thực sự không biết các "đại gia" dùng tiền ở đâu để thâu tóm ngân hàng. Tuy nhiên, với vai trò quản lý chuyên môn, Ngân hàng Nhà nước (NHNN) và Ủy ban Chứng khoán Nhà nước (UBCKNN) thừa khả năng giám sát được dòng vốn đầu tư của DN và ngân hàng. Bởi không loại trừ cá nhân hay DN được sự tiếp tay của nhiều "chân rết" trung gian (công ty chứng khoán, công ty đầu tư tài chính, ngân hàng thương mại (NHTM)…) để gia tăng theo kiểu cấp số nhân tỷ lệ sở hữu chéo, mở rộng chân rết chi phối toàn bộ DN và ngân hàng theo kiểu "đa cấp", mà trên thực tế vốn ảo, vốn vay là chủ yếu.
Bối cảnh ở Việt Nam cũng y hệt các nước khác trong khoảng thời gian đầu của quá trình công nghiệp hóa. DN "khát" vốn và ngân hàng cũng là địa chỉ cung cấp vốn chủ yếu cho nền kinh tế. Không thiếu những mối quan hệ như thế ở các ngân hàng và DN Việt. Nhưng cũng không có nhiều mối quan hệ mang lại lợi ích tốt đẹp cho cả đôi bên, thậm chí có khi còn ảnh hưởng xấu. Các trường hợp như Vinashin hay Vinalines là ví dụ tiêu biểu: là một DNNN, có sự tham gia điều hành của Chính phủ, đồng thời có nhiều mối quan hệ với NHTM nhà nước và NHTMCP.
Một điểm lợi từ mối quan hệ này chính là tín dụng chỉ định với giá rẻ. Nhưng kết quả lại là khoản nợ xấu khổng lồ cho nền kinh tế. Tuy danh nghĩa Chính phủ là người đứng ra gánh vác các khoản nợ, nhưng trên thực tế, người dân mới là người phải đóng tiền trả nợ. Nguyên Bộ trưởng Bộ Thương mại, Thành viên Hội đồng Tư vấn chính sách tài chính, tiền tệ quốc gia - ông Trương Đình Tuyển, cũng lên tiếng phản đối hình thức sở hữu chéo. Vị chuyên gia này cho rằng mặc dù pháp luật không cấm, nhưng vấn đề mấu chốt là năng lực quản trị và Việt Nam cần đưa ra luật pháp cụ thể về vấn đề sở hữu chéo.
Ông Võ Trí Thành - Phó Viện trưởng Viện Nghiên cứu quản lý kinh tế Trung ương (CIEM), cho biết: "Sở hữu chéo là vấn đề ở Việt Nam hiện nay rất ít kinh nghiệm. Khi Luật Các tổ chức tín dụng được thông qua, một trong những sai lầm "chết người" là xóa "bức tường lửa" của ngân hàng đầu tư và NHTM. Luật vẫn chưa chặt chẽ và rõ ràng phân biệt giữa ngân hàng đầu tư và NHTM truyền thống.
"Cần vừa tạo "bức tường lửa" chặt chẽ, vừa tạo sự năng động cho hệ thống để tránh rủi ro", ông Thành đề xuất.
Ở Việt Nam, hình thức sở hữu chéo được thừa nhận là khá phổ biến, nhưng chưa có một nghiên cứu nào chứng minh được thành quả từ mối quan hệ sở hữu chéo này. Sở dĩ như vậy là vì mức độ sở hữu chéo ở Việt Nam rất khó đánh giá. Nguyên do là không minh bạch thông tin và các kiểu "lách" luật sở hữu một cách hợp pháp.
----------------------------------------
Sở hữu chéo dẫn đến nhiều hệ lụy
Ts. Lê Đăng Doanh - Chuyên gia kinh tế
------------------------------------

Thông qua sở hữu chéo, cổ đông của ngân hàng A có thể vay tiền ngân hàng B thông qua một công ty đầu tư tài chính của mình để góp vốn vào ngân hàng A, và cổ đông của ngân hàng B cũng sử dụng công ty đầu tư tài chính của mình để vay ngược lại ngân hàng A. Chính điều này đã tạo ra luồng vốn tưởng là góp "tiền tươi, thóc thật" nhưng thực chất là vốn vay lẫn nhau. Điều này tạo nên lượng "vốn ảo" trong hệ thống NHTM mà quy mô thực của nó chưa được làm rõ.
Sở hữu chéo cũng cho phép ngân hàng A giấu nợ xấu của mình bằng cách không khai báo nợ xấu, mà nhờ ngân hàng B (mà ngân hàng A có sở hữu) cho vay, qua đó giảm được mức nợ xấu phải khai báo và không phải trích dự phòng rủi ro tương ứng. Đó cũng là một trong những lý do khiến NHNN khó nắm được chính xác số nợ xấu của toàn bộ hệ thống ngân hàng.

Dùng sở hữu chéo để lách các quy định
Ts. Vũ Thành Tự Anh - Giám đốc Nghiên cứu, Chương trình giảng dạy kinh tế Fulbright
------------------------------------
Sở hữu chéo có mặt tích cực là góp phần làm tăng hiểu biết giữa ngân hàng với DN, đồng thời hình thành nên một cơ cấu sở hữu và quản trị ổn định trong các DN, ngân hàng.
Tuy nhiên, sở hữu chéo cũng có mặt trái, thể hiện qua những trục trặc ngày càng rõ của ngành ngân hàng vài năm trở lại đây, trong đó nghiêm trọng nhất là các NHTM đã dùng sở hữu chéo để lách các quy định bảo đảm an toàn hoạt động do NHNN ban hành.
Thứ nhất là quy định về vốn. Theo quy định của Nghị định 141/2006/NĐ -CP, vốn điều lệ thực góp của các ngân hàng phải đạt 1.000 tỷ đồng vào năm 2008 và 3.000 tỷ đồng vào năm 2010. Thông qua sở hữu chéo, cổ đông ngân hàng A có thể vay tiền ngân hàng B để góp vốn vào ngân hàng A, và ngược lại. Hoạt động đi vay này tạo ra tình trạng tăng vốn ảo trong các ngân hàng.
Thứ hai là giới hạn tín dụng theo quy định hiện hành đã bị sở hữu chéo làm vô hiệu hoá. Các khoản tín dụng cấp cho các DN nhà nước bởi NHTM nhà nước vượt hạn tín dụng được chính NHNN phê chuẩn là những ví dụ điển hình. Thêm vào đó, quy định về các trường hợp không được cấp tín dụng, hoặc hạn chế cấp tín dụng cũng bị sai lệch.
Thứ ba là các quy định về phân loại nợ và trích lập dự phòng rủi ro của NHNN có thể bị làm sai lệch tinh thần bởi sở hữu chéo. Khi khách hàng không trả được nợ, thay vì xếp khoản vay thành nợ xấu và trích dự phòng rủi ro theo quy định, ngân hàng A có thể cho vay đảo nợ…

Miếng bánh" ngon!
Ts. Võ Trí Thành - Phó Viện trưởng CIEM
------------------------------------
Tình trạng nhập nhèm giữa chức năng, nhiệm vụ của ngân hàng đầu tư và NHTM ở Việt Nam hiện nay cũng là một trong những yếu tố gây nguy hại cho toàn hệ thống. Việc các NHTM tham gia đầu tư là một trong những nguyên nhân chính dẫn đến các cuộc khủng hoảng tài chính thời gian qua. Và như vậy, nếu tiếp tục buông lỏng trong quản lý cũng như thiếu chặt chẽ trong giám sát, ngành ngân hàng sẽ dễ dàng trở thành "miếng bánh ngon" để các nhóm quyền lực thao túng. Mà hậu quả (khi những nhóm quyền lực bị xung đột về lợi ích) thì không thể lường trước được sự đổ vỡ sẽ lớn đến mức nào.
(Theo Thời báo Kinh doanh) Việt Nguyễn

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét