Nhìn
lại vụ án Trần Dụ Châu
Cập nhật lúc 10:36
Vụ án Trần Dụ Châu là vụ án
tham nhũng nổi tiếng những năm 50 của thế kỉ trước. Vụ này đã được nhà báo
Hồng Hà viết trong loạt bài phóng sự điều tra đăng 6 kì liền, từ ngày
20/9/1950, trên báo Cứu Quốc, cơ quan tuyên truyền, cổ động, tranh đấu của
Trung ương Mặt trận Liên Việt và Tổng bộ Việt Minh, xuất bản hàng ngày. Đây
là một bài học về kiên quyết chống tham nhũng trong bất cứ thời kì nào.
Từ một viên thư kí toà sứ Pháp
Mùa Hè năm 1950, từ mặt trận đồng bằng sông Hồng, tôi trở về toà
soạn báo Cứu Quốc. Cơ quan báo vừa dọn về xã Tân Trào, huyện Sơn Dương, tỉnh
Tuyên Quang. Cuộc di chuyển mới này báo hiệu ta hoặc địch sắp có hoạt động
quân sự lớn. Anh Xuân Thủy, Chủ nhiệm báo Cứu Quốc, giao ngay cho tôi đi lấy
tài liệu viết về một vụ tham ô lớn. Đấy là vụ án Trần Dụ Châu, Đại tá, nguyên
Giám đốc Nha Quân Nhu, đang ở giai đoạn điều tra, lấy lời khai.
Lúc này, Ban Thường vụ Trung ương Đảng đã ra nghị quyết chấn
chỉnh tổ chức, kiện toàn bộ máy các cơ quan Bộ Quốc phòng – Tổng Tư lệnh. Sau
đó, ngày 11/7/1950, Chủ tịch Hồ Chí Minh kí Sắc lệnh lập ba cơ quan: Bộ Tổng
Tham mưu, Tổng cục Chính trị, Tổng cục Cung cấp. Các Nha trước đây đảm nhiệm
việc sản xuất quân trang, quân dụng nay sáp nhập vào các Cục. Nha Quân Nhu
sáp nhập vào Cục Quân Nhu trực thuộc Tổng cục Cung cấp, do đồng chí Trần Đăng
Ninh, Uỷ viên Thường vụ Trung ương Đảng, Trưởng ban Kiểm tra Trung ương, làm
Chủ nhiệm Tổng cục.
Trần Dụ Châu ngồi khai trước các cơ quan pháp luật. Sinh năm
1906 tại một tỉnh miền Trung, Châu bước vào đời bằng đi làm thư kí toà sứ
Pháp. Thấy Châu vừa đi làm, vừa viết báo “Thanh – Nghệ – Tĩnh”, e lộ chuyện
công sở, toà sứ cho Châu thôi việc. Châu chuyển sang làm nhân viên quận Hoả
xa Bắc Trung Kì.
Nhật đảo chính Pháp ở Đông Dương tháng 3/1945, Châu được cử làm
Trưởng phòng Kế toán Hoả xa Bắc Trung Kì. Nhờ quen biết người Nhật Bản, Châu
lấy được một kho vải ở huyện Đức Phong, bán đi có tiền tậu một biệt thự ở Đà
Lạt.
Cách mạng tháng Tám năm 1945 bùng nổ, Châu hiến cho Nhà nước một
phần tài sản của mình, rồi hoạt động trong Uỷ ban Công sở Nha Hoả xa Việt Nam
và Hội Công nhân Cứu quốc Hoả xa. Ngày toàn quốc kháng chiến, Châu ra Bắc,
được giao việc chạy một kho hàng lớn hơn ngàn tấn gạo, muối ở Vân Đình, Hà
Đông, đưa lên Việt Bắc cho bộ đội.
Là người tháo vát, năng động, có đầu óc kinh doanh, Châu được
vào làm ở Cục Quân Nhu. Sau một thời gian làm tốt việc cung cấp lương thực,
trang bị cho bộ đội, Châu được phong tặng quân hàm Đại tá, làm Giám đốc Nha
Quân Nhu. Lúc đó, Cục Quân Nhu chỉ phụ trách việc quản lí, quản trị, còn Nha
Quân Nhu mới có nhiệm vụ trực tiếp sản xuất quân trang, quân dụng. Có địa vị
cao, quyền hành rộng, nắm trong tay hàng trăm triệu đồng, cơ chế kiểm tra,
kiểm soát lại lỏng lẻo, không biết tự kiềm chế, Châu đi dần vào con đường sa
ngã.
Châu lấy cắp của công quỹ một số tiền lớn: 57.959 đồng
Việt Nam, 149 đôla Mỹ, các tài sản khác trị giá 143.900 đồng
Việt Nam. Giá gạo ở Thái Nguyên – Bắc Cạn năm 1950 là 50 đồng/một kg,
còn chiến sĩ ta mỗi ngày chỉ được cấp vài lạng gạo và hơn 10 đồng tiền thức
ăn. Ngoài ra, Châu còn nhận hối lộ khá nhiều tiền, chuyên quyền, độc đoán,
sống sa đoạ, đồi truỵ. Uỷ ban Tiếp liệu Thu – Đông 49, các kho số 1, 4, 10
thường xuyên nộp cho Châu tiền tiêu, rượu, đồ hộp, hải sản khô, thuốc lá,
quần áo, chăn len… Tuyển người, thải người theo sở thích cá nhân, vung tiền
bao gái; có lần dùng ôtô công đưa gái đi chơi ở Bắc Cạn. Châu dan díu với một
nữ nhân viên xinh đẹp, bổ nhiệm làm “bí thư văn phòng” của Nha, làm việc cùng
buồng, ăn ở cùng nhà với Châu. Các cán bộ điều tra có trong tay cuốn nhật kí
của nữ “bí thư văn phòng” cùng gần 100 kiểu ảnh lãng mạn chụp với Châu. Giữa
lúc nữ bí thư đi dự lớp huấn luyện thì Châu đưa từ Phú Thọ về cơ quan một cô
gái giới thiệu là em nuôi, suốt ngày ở trong buồng riêng của Châu. Nữ bí thư
từ lớp học về bất chợt bắt gặp và đã xảy ra một cuộc đánh ghen ầm ĩ.
Tiếng tăm ăn chơi của Châu nổi như cồn ở Hanh Cù, Phú Thọ, một
thị trấn sầm uất, tối đến cả đường phố dài rực sáng ánh đèn măng
sông, với nhiều hiệu ăn sang trọng và cửa hàng đầy ắp hàng tiêu dùng nước
ngoài. Mỗi lần về công tác ở Liên khu 10, gồm các tỉnh Phú Thọ, Tuyên Quang…,
Châu đều đưa bạn bè đến chè chén ở đây, nhất là ở nhà hàng Ba Đình. Cũng tại
thị trấn này, Châu tổ chức đám cưới cho Bùi Minh Trân, Trưởng ban Mậu dịch
của Quân giới liên khu Việt Bắc, tiêu tốn hàng vạn đồng. Báo Cứu Quốc đã có bài
phê bình kịch liệt đám cưới này mà Nhân dân Phú Thọ thì nói rằng “đã làm váng
đục cả một khúc sông Thao”. Chính từ thị trấn Hanh Cù, đã bắt đầu có những
bức thư tố cáo Trần Dụ Châu gửi đến các cơ quan có liên quan.
Thầy nào trò nấy
Tay chân đắc lực nhất của Châu là Lê Sỹ Cửu, sinh tại một
tỉnh miền Trung, kém Châu 10 tuổi. Cửu mồ côi cha mẹ từ năm 8 tuổi. Năm 12
tuổi, hắn ra Móng Cái, đi làm cho một nhà buôn Hoa Kiều; lớn lên tham gia
buôn thuốc phiện lậu trên đường Móng Cái – Hải Phòng. Sau Cách mạng tháng Tám
năm 1945, Cửu trở về miền Trung, vào làm công an, nhưng được ít lâu thì bị
đuổi, liền quay ra Bắc. Sau khi kháng chiến toàn quốc bùng nổ, Cửu gặp và
được Châu giới thiệu vào làm ở Ban Vận tải quân giới. Một thời gian sau, lại
bị đuổi việc, Cửu lần mò lên Cao Bằng kiếm ăn. Tại đây, tháng 8/1947, gặp lại
Châu, Cửu được Châu đưa vào Cục Quân Nhu, làm nhân viên tiếp liệu ở Cao Bằng.
Vừa xa nhà, vừa được Châu che chở, Cửu lộng hành làm bậy, lấy cắp tiền công,
ăn tiêu bừa bãi, thường xuyên lui tới các nhà hàng, tiệm hút vùng Cao Bằng.
Nghe được nhiều tiếng xấu về Cửu, Châu vội rút Cửu về Nha, lập
ra một tổ chức mới gọi là “Ban Thế phẩm Đay” giao cho Cửu làm Trưởng ban.
Châu tuyên truyền ầm ĩ rằng, Ban này lo các đồ mặc mùa Đông cho bộ đội, từ
nay các chiến sĩ ta không phải lo đến cái rét ở rừng núi nữa. Nhưng đây chỉ
là một mánh khoé tham ô của Châu: Lấy ba phần tư số tiền cấp trên phát cho
Ban Thế phẩm Đay, Châu giao cho Cửu đi buôn lậu.
Lê Sỹ Cửu khai trước Ban Kiểm tra của Bộ Quốc phòng: Mỗi khi đi
mua vải về cho Ban Thế phẩm, Cửu cho tăng giá thêm từ 20 đến 25 đồng mỗi tấm
để lấy tiền đút túi. Trong một chuyến mua vải mộc và vải diềm bâu, Cửu lấy
được 50 vạn đồng. Khi xuất kho vải giao cho cơ sở nhuộm, Cửu chỉ tính số tấm,
không tính số vuông; cho xẻ đôi những tấm vải dài để nhuộm, khi nhận về kho
số vải đã nhuộm, dôi ra 1.225 tấm vải, bỏ túi riêng được 66 vạn đồng. Người
bán vải giao hàng tận kho, không tính tiền vận chuyển, nhưng Cửu lại tính với
Ban phải trả phí vận chuyển. Khi nhà thầu lĩnh hàng thì phải cung cấp đầy đủ
khuy cúc, nhưng Cửu tính với Ban tiền khuy cúc riêng. Với hai thủ đoạn trên,
Cửu cũng lấy được 4 vạn đồng.
Cửu cho khắc một con dấu giống dấu của Nha quân nhu để cấp cho
một số người buôn lậu, mỗi lần được 2 vạn đồng. Cửu giàu lên nhanh chóng, ăn
chơi sa đoạ, sắm được một chiếc thuyền đẹp để gia đình du ngoạn và tổ chức
những cuộc dạ hội trên sông. Cửu hối lộ đều đặn theo từng vụ cho Châu, tổng
cộng khoảng 40 vạn đồng và nhiều tài sản có giá trị.
Trong Nha, cán bộ nhân viên gọi Châu là “Châu Hổ”, sợ Châu như
cọp. Một số cán bộ, đảng viên trong Nha không chịu để Châu lôi
kéo, đã mạnh dạn phê bình Châu. Có người do nói thẳng đã bị Châu đẩy khỏi cơ
quan. Những điều tiếng xấu về Châu ngày càng nhiều. Châu gọi đó là “những câu
chuyện hàm hồ, soi mói vì ghen ghét”. Tối ngày 27/5/1950, Châu gọi một nhân
viên tay sai đến nhà, cho uống rượu, ăn cơm. Rồi Châu đọc cho nhân viên đó
viết một bức thư gửi Đại tướng Tổng Tư lệnh, báo cáo rằng “trong Nha Quân Nhu
có một tổ chức gây chia rẽ và phá hoại quân đội ta”.
Nghe tin Cửu bị bắt, Châu chạy đến Cục Quân pháp để “minh oan”,
xin cho Cửu tự do. Châu còn báo cáo với Bộ Quốc phòng: “Tôi xin cam đoan nhân
viên Lê Sỹ Cửu không ăn cắp một xu nhỏ”. Bộ bác đơn của Châu.
Quân pháp nghiêm minh
Lê Sỹ Cửu tiếp tục khai với Ban Kiểm tra:
- Những tội lỗi của tôi kể trên một phần do đại tá Châu xúi dục.
Sở dĩ tôi làm như vậy vì tôi yên trí rằng đã có đại tá Châu bênh vực, mọi
việc không sợ gì cả!
Đến lượt Trần Dụ Châu cũng thú nhận trước Ban Kiểm tra:
- Tôi quả là người không liêm khiết.
Cán bộ kiểm tra hỏi Châu: – Đã lấy của Lê Sỹ Cửu những gì ? Châu trả lời: – Tôi lấy nhiều lắm, không thể nhớ là bao nhiêu. Nhưng lần nào Cửu đến tôi thì cũng có ít nhiều tiền đưa tôi.
Ngày 5/9/1950, tại thị xã Thái Nguyên, Toà án binh tối cao mở
phiên toà đặc biệt xử vụ Trần Dụ Châu. Còn lâu mới tới giờ khai mạc mà trong
và ngoài toà đã chật ních người. Cửa vào phòng xử án có một bảng khẩu hiệu:
“Nêu cao ánh sáng công lí trong quân đội”. Trong phòng xử, trên tường đối
diện nhau có hai khẩu hiệu: “Quân pháp vô thân” và “Trừng trị để giáo huấn”.
Đúng 8 giờ, đại diện Chính phủ, Quân đội và Toà án binh tối cao tới, đi giữa
hàng rào bộ đội bồng súng.
Thiếu tướng Chu Văn Tấn ngồi ghế chánh án giữa hai ông hội thẩm
viên Phạm Học Hải, Giám đốc Tư pháp Liên Khu Việt Bắc và Trần Tấn, Phó Cục
trưởng Cục Quân nhu. Thiếu tướng Trần Tử Bình, đại diện Chính phủ, ngồi ghế
Công cáo uỷ viên. Tới dự phiên toà còn có các ông: Nguyễn Khang, nguyên Chủ
tịch Uỷ ban Kháng chiến hành chính Liên khu Việt Bắc; Võ Dương, Liên Khu Hội
trưởng Liên Việt Liên khu Việt Bắc; Đỗ Xuân Dung, Giám đốc Công chính Liên
khu Việt Bắc; bác sĩ Vũ Văn Cẩn, đại biểu quân đội, đại diện các đoàn thể
Nhân dân và các nhà báo.
Tiếng gọi các bị cáo vang trong phòng họp. Bị cáo Lê Sỹ Cửu vắng
mặt vì ốm nặng. Thiếu tướng chánh án hỏi các bị cáo. Trần Dụ Châu bước ra
trước vành móng ngựa, nói nhiều về những công lao và thành tích cách mạng của
mình, cho rằng do nhân viên làm bậy là chính mà mình không kiểm soát được.
Thiếu tướng Công cáo uỷ viên, đại diện Chính phủ, đứng lên đọc
bản cáo trạng:
“Thưa toà, thưa các vị,
Trong tình thế ta gấp rút chuẩn bị Tổng phản công, mọi người
đang nai lưng buộc bụng tích cực phục vụ kháng chiến trước tiền tuyến, quân
đội ta đang hi sinh để đánh trận căn bản mở màn cho chiến dịch mới, thì tôi
thiết tưởng mà cũng là lời yêu cầu Toà dùng những luật hình sẵn có để xử Trần
Dụ Châu và theo chỉ thị căn bản của vị Cha già dân tộc là cán bộ phải cần
kiêm liêm chính. Việc phạm pháp của Trần Dụ Châu xảy ra trong không gian là
Việt Bắc, nơi thai nghén nền độc lập của nước Việt Nam Dân chủ Cộng hoà, đã
làm vẩn đục Thủ đô kháng chiến…
… Để đền nợ cho quân đội; để làm gương cho cán bộ và Nhân dân;
để cảnh tỉnh những kẻ đang miệt mài nghĩ những phương kế xoay tiền của Chính
phủ; để xử tử vắng mặt những lũ bầy ra mưu nọ kế kia, lừa trên bịp dưới; để
trừ hết loài mọt quỹ, tham ô dâm đãng; để làm bài học cho những ai đang trục
lợi kháng chiến, đang cậy quyền, cậy thế để loè bịp Nhân dân;
Bản án mà toà sắp tuyên bố đây phải là một bài học đạo đức cách
mạng cho mọi người; nó sẽ làm cho lòng công phẫn của Nhân dân được thoả mãn,
làm cho Nhân dân thêm tin tưởng, nỗ lực, hi sinh cho cuộc toàn thắng của nước
nhà.
Vì vậy, tôi yêu cầu toà xử phạt:
1- Trần Dụ Châu: tử hình
2- Tịch thu ba phần tư tài sản 3- Tịch thu những tang vật hối lộ trái phép 4- Phạt tiền gấp đôi những tang vật hối lộ và biển thủ”.
Trần Dụ Châu tái mặt, cất giọng yếu ớt xin toà tha thứ. Thiếu
tướng chánh án tuyên bố toà nghỉ để họp kín.
15 phút sau, toà trở ra tiếp tục họp. Thiếu tướng Trần Tử Bình
đọc công lệnh của Đại tướng Tổng Tư lệnh tước quân hàm đại tá của Trần Dụ
Châu.
Thiếu tướng chánh án đứng lên tuyên án:
- Trần Dụ Châu can tội biển thủ công quỹ, nhận hối lộ, phá hoại
công cuộc kháng chiến: Tử hình; tịch thu ba phần tư tài sản.
- Lê Sỹ Cửu can tội biển thủ công quỹ, thông đồng với bọn buôn
lậu, giả mạo giấy tờ; tử hình vắng mặt.
Hai chiến sĩ công an dẫn Châu rời nơi xử án trở về nhà giam. 6
giờ chiều hôm sau, Trần Dụ Châu được đưa ra trường bắn trước sự có mặt của
đại diện Bộ Tư pháp, Nha Công an, Cục Quân nhu và một số cơ quan khác. Một
cán bộ đọc to bức công điện của Chủ tịch Hồ Chí Minh bác đơn xin giảm tội của
Châu…
11 ngày sau, hàng nghìn cán bộ, chiến sĩ quân nhu tận tuỵ và anh
dũng của chúng ta đã kịp thời đưa ra mặt trận hàng nghìn tấn lương thực, thực
phẩm, quân trang… phục vụ tốt trận đánh tiêu diệt địch ở Đông Khê, mở đầu
chiến dịch quy mô lớn và dài ngày giải phóng biên giới
Báo Ngày mới online
|
Thứ Tư, 3 tháng 5, 2017
Đăng ký:
Đăng Nhận xét (Atom)
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét