Chiến tranh xâm lược của Trung Quốc 1979:
Man rợ chiến thuật 'biển người'
Cập nhật lúc 09:45
Theo
nhận xét của các chuyên gia quân sự quốc tế, dù thua trong cuộc chiến tranh
với Việt Nam năm 1979 nhưng các nhà cầm quân Trung Quốc cũng đã rút ra
được nhiều bài học tác chiến.
Tuy nhiên, các
nhà cầm quân Trung Quốc bị thế giới lên án mạnh mẽ không chỉ vì đã vô cớ tiến
hành chiến tranh khi Việt Nam không hề xâm hại gì tới Trung Quốc, mà còn vì
họ đã không hề tiếc xương máu binh lính của mình.
Với chiến thuật
“biển người”, họ đã xua quân ào ạt sang lãnh thổ Việt Nam, bất chấp những bãi
mìn và làn đạn bắn trả. Phần lớn nạn nhân của cái gọi là “chiến thuật” này là
những thanh niên Hoa kiều vừa rời bỏ Việt Nam trong vài năm trước đó theo
tiếng gọi của “nước mẹ”.
Ỷ vào ưu thế về
mặt quân số và vũ khí, phía Trung Quốc hả hê với trò “lấy thịt đè người”. Với
mức tổn thất khoảng 2 – 3 nghìn quân mỗi ngày, phía Trung Quốc vẫn không chùn
tay, tiếp tục xua quân vào chỗ chết.
Phóng viên
chiến trường của các hãng thông tấn nước ngoài đã phải hãi hùng khi chứng
kiến cảnh xác lính Trung Quốc phơi đầy nơi chiến địa, đến nỗi khi gửi tin về
tòa soạn, họ đã phải ghi chú là không thể tin vào mắt mình.
Binh sĩ Trung
Quốc hồi đó cũng không được giáo dục về quy ước chiến tranh hiện đại nên đã
không ngần ngại thực hiện hành vi giết hại dân thường không tấc sắt trong
tay. Đó là điều đáng lên án hơn hết.
Với chiến thuật
“luồn sâu” nham hiểm, một số đơn vị đặc nhiệm của Trung Quốc đã lọt được vào
hậu tuyến của phía Việt Nam, cắt đứt được vài đường tiếp vận cho quân dân
Việt Nam nơi tiền tuyến, nhưng cuối cùng cũng bị đánh nát không còn một mống.
Quân Trung Quốc
đã sử dụng xe tăng ngay từ những cuộc tấn công đầu tiên ở cả ba mũi Cao Bằng,
Lạng Sơn và Lào Cai. Xe tăng Trung Quốc hoạt động trên những tuyến đường
chính và các thung lũng hai bên đường.
Tuy nhiên, do
sự phối hợp kém cỏi với bộ binh và cũng do địa hình đồi núi phức tạp, rất
nhiều xe tăng Trung Quốc bị tiêu diệt, vì vậy phía Trung Quốc bắt đầu hạn chế
sử dụng xe tăng-thiết giáp trong các đợt tấn công tiếp theo, trở thành lực
lượng trợ chiến cho bộ binh chứ không còn là lực lượng tấn công chủ lực.
Phía Trung Quốc
cũng chỉ sử dụng pháo binh để “dọn đường” cho bộ binh chứ không phải là lực
lượng tấn công quyết định.
Cũng cần xác
nhận rằng, Trung Quốc là hàng cao thủ trong tuyên truyền, vận động. Ở những
điểm dân cư mà họ chiếm được, họ ra sức tuyên truyền sai trái rằng
"đất này vốn thuộc về Trung Quốc, chẳng qua bị Việt Nam chiếm đóng hàng
trăm năm nay, bây giờ chính là lúc người dân địa phương có cơ hội để trở về
với “đất mẹ”.
Đặc biệt, những
sĩ quan làm công tác chính trị trong quân đội (chính trị viên, chính ủy…) thì
tuyệt đối mù quáng, dù đã bị bắt làm tù binh vẫn lải nhải tuyên bố về “chính
sách đúng đắn” của Trung Quốc trong cuộc chiến chống Việt Nam.
Tuy nhiên, qua
cuộc chiến này, quân đội Trung Quốc cũng bộc lộ nhiều điểm yếu:
Đội ngũ chỉ huy
ở tất cả các cấp, đặc biệt là trung cấp và cao cấp, đã tỏ ra khá yếu kém
trong việc tổ chức các hoạt động chiến đấu và việc điều binh khiển tướng
trong các trận chiến, dẫn đến tình trạng các đơn vị phối hợp với nhau khá
lỏng lẻo, do đó phải chịu tổn thất lớn về nhân lực và trang thiết bị, đặc
biệt là xe tăng, tốc độ tấn công cũng rất hạn chế;
Quân đội Trung
Quốc (vào thời đó) còn thiếu vũ khí hiện đại, trang thiết bị quân sự (xe
chiến đấu dành cho bộ binh, trực thăng, tên lửa…) còn khá nghèo nàn, lạc hậu.
Khả năng cơ
động thấp vì thiếu các phương tiện vận chuyển trong địa hình rừng núi.
Thiếu phương
tiện thông tin liên lạc hiện đại, đặc biệt là từ cấp trung đoàn trở xuống.
Yếu về hậu cần
và các phương tiện kỹ thuật hỗ trợ khi phải chiến đấu ở nơi xa nguồn cung cấp
quân lương và các loại vật tư thiết bị.
(Theo Năng lượng Mới) Phạm Bá Thủy
|
Thứ Bảy, 20 tháng 2, 2016
Đăng ký:
Đăng Nhận xét (Atom)
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét