20:21
Thị trường lúa gạo đang ở thế độc quyền?
VOV.VN-Chỉ 2 Tổng công ty Lương thực
Vinafood 1 và Vinafood 2 chiếm tới hơn 50% thị phần, và VFA có thể chi phối
chính sách.
Một nghiên cứu mới đây của Viện Chính sách và Chiến lược Phát
triển Nông nghiệp, Nông thôn (IPSARD) đã chỉ ra rằng, nông dân hiện chưa được
hưởng lợi 30% từ sản xuất lúa gạo như mục tiêu Chính phủ đề ra. Ngay cả khi
giá gạo trên thị trường thế giới lên cao, nông dân vẫn không hưởng lợi từ giá
lên. Muốn khắc phục tình trạng này, phải bắt đầu từ hệ thống chính sách.
VFA có khả năng chi phối
chính sách?
Theo đánh giá của Giáo sư Võ Tòng Xuân, trong chuỗi lợi nhuận từ
sản xuất lúa gạo, hiện tại chỉ thương lái và doanh nghiệp xuất khẩu hưởng
nhiều nhất. Nguyên nhân do doanh nghiệp xuất khẩu chưa gắn kết chặt chẽ với
nông dân (thông qua việc cung cấp đầu vào, hỗ trợ kỹ thuật, xây dựng vùng
nguyên liệu và bao tiêu sản phẩm). Doanh nghiệp không muốn tái đầu tư cho nông
dân, doanh nghiệp chủ yếu đầu tư ra các lĩnh vực kinh doanh khác như vật tư
nông nghiệp, hàng hóa công nghiệp, bất động sản… để tìm kiếm lợi nhuận.
Còn chuyên gia kinh tế Phạm Chi Lan cho rằng, “việc lợi nhuận từ
kinh doanh lúa gạo đang rơi vào tay thương lái khá nhiều là bất hợp lý. Hội
Nông dân có danh thì cao, nhưng thực chất vai trò mờ nhạt, ít phục vụ được
cho nông dân. Còn Hiệp hội Lương thực Việt Nam (VFA) lại có vị thế quá lớn,
có quá nhiều lợi thế trong việc đề xuất chính sách. Họ không quan tâm đến
nông dân khi đề xuất chính sách thu mua tạm trữ lúa gạo mà thay vào đó là bảo
vệ quyền lợi của các doanh nghiệp xuất khẩu. Rõ ràng, thị trường lúa gạo đang
ở thế độc quyền, vì chỉ Tổng công ty Lương thực miền Bắc (Vinafood 1) và Tổng
công ty Lương thực miền Nam (Vinafood 2), chiếm tới hơn 50% thị phần xuất
khẩu gạo của nước ta. Tình trạng này làm mất đi vai trò, sự sáng tạo của
doanh nghiệp tư nhân”.
Trước thực trạng nông dân chưa được hưởng lợi từ giá gạo, dù giá
tăng cao, Viện IPSARD đề xuất, chính sách phát triển ngành hàng lúa gạo trong
tương lai nên được tập trung vào tiến hành hợp tác quốc tế để đáp ứng nhu cầu
về mặt chính trị của cây lúa, thay vì hợp đồng kinh tế phải là hợp đồng đầu
tư với quốc gia chuyên nhập lúa gạo.
Với chính sách này, theo ông Trần Công Thắng (Viện IPSARD), một
phần sẽ góp nâng cao vị thế của Việt Nam, mặt khác sẽ góp phần gắn chặt nhà
nhập khẩu với vùng sản xuất, rút ngắn khâu trung gian nâng cao giá bán cho
người sản xuất.
Cùng với đó, những vùng chuyên canh sản xuất lúa hàng hóa phải
được quy hoạch để sản xuất lớn, được đầu tư cẩn thận, lúa chất lượng cao, phù
hợp thị hiếu. Đây chính là những mô hình “cánh đồng mẫu lớn” đang được nhà
nước quan tâm. Tuy nhiên các chính sách hỗ trợ đầu tư của nhà nước đối với
những vùng chuyên canh này vẫn chưa rõ ràng.
Chính vì thế, “các chính sách nên tập trung nâng cấp chuỗi giá
trị lúa gạo vùng chuyên canh với sự tham gia của nông dân và các chính sách
hỗ trợ các tác nhân trong chuỗi giá trị từ sản xuất đến kinh doanh, xuất khẩu
gạo”- ông Thắng nhấn mạnh.
Tuy nhiên, sản xuất theo chuỗi giá trị với vùng chuyên canh, hiện
còn vướng ở việc liên kết doanh nghiệp và nông dân lại với nhau. Ông Thắng
nêu ví dụ: Triển khai mô hình cánh đồng mẫu lớn hiện đang vướng ở khâu liên
kết nông dân lại với nhau. Do đó, về chính sách, “nên bổ sung điều kiện đối
với doanh nghiệp xuất khẩu gạo quy định tại Nghị định 109 là cần thiết phải
có sự liên kết với nông dân thể hiện bằng hợp đồng nông sản. Tổ chức HTX nên
được tăng cường để thực hiện hiệu quả việc liên kết nông dân, đặc biệt là những
nông dân quy mô nhỏ”.
Chính sách lúa gạo phải xuất
phát từ thị trường
Bên cạnh tăng cường liên kết giữa doanh nghiệp và nông dân,
IPSARD cho rằng, các chính sách hỗ trợ chỉ nên tập trung cho vùng
chuyên canh chính thay vì toàn quốc trong phát triển cơ sở hạ tầng, hệ thống
chế biến và kinh doanh. Các vùng khác nên được chủ động đa dạng hóa sản xuất
theo tín hiệu thị trường. Từ đó, giá tại vùng chuyên canh là giá tham chiếu,
phục vụ điều hành kinh doanh gạo trên cả nước.
TS Đào Thế Anh, Giám đốc Trung tâm Nghiên cứu và Phát triển Hệ
thống Nông nghiệp cũng cho rằng, “cần có chính sách cấp vùng và chính sách
cấp toàn quốc cho ngành lúa gạo. Đặc biệt, phải xác định rõ vị thế của nông
dân trong chuỗi giá trị. Nếu vị thế yếu, nông dân khó có lợi trong chuỗi này”.
Theo Viện IPSARD: Về chính sách điều hành, Nhà nước phải
thành lập Ban điều hành lúa gạo với sự tham gia của doanh nghiệp, nông dân.
Ban này chịu trách nhiệm dự báo thị trường, xúc tiến thương mại, quy hoạch
vùng trồng lúa. Để có được sự phát triển bền vững ngành lúa gạo ở Việt
Nhấn mạnh
vai trò dẫn đường của chính sách, chuyên gia kinh tế Phạm Chi Lan chỉ rõ: Vừa
qua, Nhà nước có nhiều chính sách hỗ trợ nông dân nhưng lợi ích cuối cùng vẫn
chưa đến tay nông dân. Tình trạng nông dân bỏ ruộng là phản ứng rõ nhất về
chính sách đối với nông dân, với ngành lúa gạo chưa phù hợp, chưa đem lại lợi
ích cho người nông dân như tiềm năng đang có.
Để khắc phục tình trạng này,
cùng với việc hình thành các vùng chuyên canh, bà Phạm Chi Lan đề nghị, chính
sách của Nhà nước phải bắt đầu tư việc tiếp cận ngành lúa gạo ở góc độ thị
trường. Nhà xuất khẩu lúa gạo cần liên kết với nông dân và phải tham gia vào
quá trình sản xuất.
Cùng các giải pháp nêu trên, Viện IPSARD đề xuất: Cần nâng cao
khả năng cạnh tranh của cây lúa thông qua việc nâng cao năng suất, năng lực
cạnh tranh bằng đầu tư nghiên cứu, hỗ trợ khuyến nông, giống mới đặc biệt
những giống chất lượng cao (gạo thơm), giống chống chịu biến đổi khí hậu. Dần
dần từng bước hỗ trợ các DN xuất khẩu lớn xây dựng thương hiệu gạo của Việt
Đặc biệt, Chính phủ cần có quy hoạch tổng thể ngành gạo với hai
mục tiêu chính sách khác nhau nhưng bổ sung cho nhau, bao gồm sản xuất hàng
hóa quy mô lớn và sản xuất quy mô nhỏ để tự tiêu thụ hoặc để bán trong cộng
đồng địa phương.
Cân nhắc và tính đủ tất cả các chi phí sản xuất trong khi nỗ lực
nâng cao khả năng cạnh tranh, xây dựng thương hiệu, đảm bảo giá bán cạnh
tranh nhưng không thấp so với các loại gạo khác cùng chủng loại là điều cần
được đặc biệt lưu ý./.
Theo
Xuân Thân/VOV online
|
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét